Giáng sinh: Một sự kiện, bốn câu chuyện

Khi nói về câu chuyện Giáng sinh, chúng ta sẽ mường tượng về một gia đình thánh, lúc nửa đêm, nơi chuồng chiên máng cỏ, thiên sứ cùng những bài hát mừng, người chăn chiên, ba vua và một thị trấn nhỏ yên tĩnh Bết-lê-hem.

Nhưng đáng chú ý là bốn sách Tin Lành Tân Ước kể câu chuyện Giáng sinh của Chúa Jesus theo bốn cách rất khác nhau, nhưng không hề mâu thuẫn với nhau.

Mỗi sách Tin Lành tập trung truyền đạt cách nhìn của họ về Chúa Jesus, qua đó mạnh mẽ công bố thông điệp độc đáo của mỗi người đến với chúng ta.

Tin Lành Mác

Tin Lành Mác có thể là sách đầu tiên được viết trong 4 sách Tin Lành, và mặc dù được Mác viết, nhưng theo truyền thống của Hội Thánh đầu tiên, sách này đại diện cho lời rao giảng và sứ điệp của Sứ đồ Phi-e-rơ.

Phúc âm Mác không ghi lại gì về sự ra đời của Chúa Jesus. Mác bắt đầu câu chuyện về Chúa Jesus bằng lời kêu gọi của Giăng Báp-típ ở nơi đồng vắng. Lần đầu tiên Chúa Jesus xuất hiện trong sách này này là khi Ngài đến chịu Báp-têm bởi Giăng.

“Câu chuyện thiếu sót” này phục vụ mục đích duy nhất của Phúc âm Mác: dành cho người Rô-ma trong thời đại ông, nhấn mạnh thông điệp ẩn giấu về công việc âm thầm của Chúa Jesus là Cứu Chúa. Việc bỏ qua những chi tiết về sự ra đời của Chúa Jesus giúp độc giả hiểu rằng việc Chúa Jesus sinh ra hoặc đến từ gia đình nào không quan trọng, mà công việc phục vụ, hy sinh của Ngài mới là điều định nghĩa Ngài.

Xã hội Rô-ma trong Thế kỷ I bị chia rẽ sâu sắc thành các tầng lớp xã hội, danh dự và địa vị, thì bức tranh tinh tế về công việc ẩn giấu và trọn vẹn của Đấng nắm mọi thẩm quyền cho thấy Chúa Jesus định nghĩa sứ mệnh và chức vụ của Ngài bằng cách phục vụ người khác.

Tin Lành Ma-thi-ơ

Trái ngược hoàn toàn với “câu chuyện thiếu sót” của Mác, Ma-thi-ơ bắt đầu bằng một gia phả công phu, với Chúa Jesus là hậu duệ của vua Đa-vít và Áp-ra-ham. Ma-thi-ơ cho thấy mối quan tâm đặc biệt của mình và định hướng độc giả theo Phúc âm của ông. Ông đang viết thư cho người Do Thái, tuyên bố rằng Chúa Jesus là Vua tốt hơn Đa-vít và là một lãnh đạo vĩ đại hơn Môi-se.

Câu chuyện Giáng sinh trong Ma-thi-ơ tập trung vào vai trò của Giô-sép – “là người có nghĩa” theo lời của Ma-thi-ơ. Giô-sép hoàn toàn trái ngược với Hê-rốt, kẻ thống trị bất công và độc ác. 

Ma-thi-ơ cũng tập trung minh chứng sự kiện Chúa Jesus Giáng sinh đã hoàn thành những lời tiên tri trong Cựu Ước, và sử dụng những lời tiên tri này để công bố Chúa Jesus là Vua, Đấng cai trị Israel, là Con Một của Đức Chúa Trời.

Ma-thi-ơ kể về các vị vua thông thái đến thờ phượng cùng lễ vật quý giá dâng lên Vua; hành động xấu xa của vua Hê-rốt; cuộc hành trình của gia đình thánh đến Ai Cập và trở về (đây là một phần không nhỏ để minh họa cách sống của Chúa Jesus phản ánh cuộc sống của người dân Y-sơ-ra-ên); và những thiên sứ hướng dẫn Giô-sép trong giấc chiêm bao. Ma-thi-ơ trình bày rõ ràng rằng sự ra đời của Chúa Jesus đã ứng nghiệm mọi lời tiên tri và niềm hy vọng trong Kinh Thánh Do Thái, Ngài là Vua dân Y-sơ-ra-ên, Đấng được trao mọi quyền phép trên Thiên đàng và dưới đất. Ngài là Emmanuel, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.

Tin Lành Lu-ca

Lu-ca là sách được viết theo trình tự: sự ra đời, chức vụ, cuộc đời, sự hy sinh và sự phục sinh của Chúa Jesus. Lu-ca được viết chủ yếu dành cho độc giả người ngoại, tập trung vào nhóm người bị bỏ rơi và bị lãng quên trong xã hội Địa Trung Hải thế kỷ thứ nhất. Do đó, Tin Lành Lu-ca có đầy đủ các tài liệu tham khảo về phụ nữ, trẻ em, người bệnh, người nghèo và những nhóm người bị từ chối như người Samari.

Những người bị bỏ rơi và từ chối cũng được quan tâm đặc biệt trong câu chuyện ra đời của Chúa Jesus. Câu chuyện Giáng sinh của Lu-ca là dài nhất trong bốn sách Tin Lành, đặc biệt tập trung vào vai trò của Đức Thánh Linh và những người phụ nữ. Ở đây ghi lại sự kiện thiên sứ đến với Ma-ri (không phải Giô-sép); cũng như sự kiện Ê-li-sa-bét và Ma-ri đều ca ngợi, chúc tụng Chúa. Lu-ca tập trung kể lại tình trạng bơ vơ không chốn ở của Giô-sép và Ma-ri ở Bết-lê-hem, sự chăm sóc đặc biệt dành cho Hài nhi Jesus, và việc chuồng chiên máng cỏ lại hóa ra chiếc nôi thánh như thế nào.

Để tập trung mạnh mẽ hơn nữa vào người nghèo và người bị xã hội từ chối, các thiên sứ đã hiện ra với những mục đồng trong sách Lu-ca, chứ không phải những người thông thái giàu có và quyền lực được nhắc đến trong Ma-thi-ơ. Chính những người chăn chiên bình thường đã chứng kiến ​​sự kiện vinh quang này và trở thành những sứ giả đầu tiên của Chúa Hòa bình và Nhân lành cho nhân loại.

Câu chuyện Giáng sinh tuyệt đẹp trong Lu-ca đã khắc họa trọn vẹn sự kiện Nhập thể của Đức Chúa Trời qua Chúa Jesus, sinh ra giữa những người nghèo và bị xã hội từ chối, mang lại bình an và hạnh phước cho nhân loại.

Tin Lành Giăng

Tin Lành Giăng là sách cuối cùng được viết, ghi lại sự ra đời của Chúa Jesus bằng ngôn ngữ thiêng liêng, thuộc linh. Sách này được viết bởi môn đồ đã trải nghiệm tình yêu tuyệt vời của Chúa Jesus, ông tự nhận mình là người được Chúa yêu. Giăng tường thuật về sự ra đời của Chúa Jesus như sách Sáng thế ký thứ hai vậy.

Đối với Giăng, Giáng sinh bắt đầu từ Thiên đàng: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài”. Sau đó, Giăng mô tả sự ra đời của Chúa Jesus bằng ngôn ngữ mạnh mẽ: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta”. Đây là bức thư viết cho dân ngoại thuộc Đế chế La Mã, giải thích rằng trong Chúa Jesus đã trở nên xác thịt và chọn sống giữa chúng ta, do đó tất cả chúng ta đều là nhân chứng cho vinh hiển Ngài, đầy ơn và lẽ thật.

Phúc âm Giăng tập trung vào những thuộc tính thiêng liêng của Chúa Jesus. Giăng không đề cập bất kỳ điều gì về Ma-ri, Giô-sép và tất cả những nhân vật mà Ma-thi-ơ và Lu-ca đã nhắc đến trong sự kiện Giáng sinh. 

Giăng tuyên bố rõ rằng Giáng sinh là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới. Chúa trở nên xác thịt và chiếu soi ánh sáng Ngài trong bóng tối, sự kiện phản chiếu lại một lần nữa công trình sáng tạo thiên đàng và thế giới.

Tóm tắt – Bốn sách Tin Lành

Bốn sách Tin Lành trong Tân Ước vẽ nên bốn bức tranh về sự kiện Chúa Jesus ra đời một cách độc đáo và tự do:

Ma-thi-ơ viết rằng Chúa Jesus là Vua dân Giu-đa, đáng được vâng phục và tôn thờ.

Lu-ca cho thấy Đấng Cứu Rỗi nhân lành mang lại ơn phước và giải thoát cho những người nghèo khổ, bị bỏ rơi và thiệt thòi.

Mác mô tả Chúa Jesus là Đấng hy sinh, phục vụ trong thầm lặng, Ngài không cần tham gia cuộc chiến giành quyền tối cao và địa vị.

Giăng bày tỏ Chúa Jesus là Đức Chúa Trời, là Ngôi Lời trở nên xác thịt, Ngài tỏa sáng trong bóng tối để mang đến một khởi đầu mới cho thế giới này.

Hãy tận dụng mùa Giáng Sinh này để khám phá lại những câu chuyện đầy năng quyền trong cách sách Tin Lành Tân Ước.

Và cùng đọc lại câu chuyện Giáng sinh trong Tân Ước:

Ma-thi-ơ 1: 1 – Ma-thi-ơ 2:23

Lu-ca 1: 1 – Lu-ca 2:40

Giăng 1: 1-14

Bài: Corné Bekker; dịch: Jennie

(nguồn: cbn.com – dịch bởi oneway.vn)

57 xu làm nên lịch sử

Cách đây lâu lắm rồi, có một bé gái đứng ngoài một ngôi giáo đường nhỏ, em không vào bên trong đươc vì quá đông người. Khi ấy
vị mục sư chủ tọa HT Temple Baptist Church Philadelphia, Russell H. Conwell, hỏi cô bé tại sao lại khóc, cô trà lời rằng cô không thể
vảo học lớp trường Chúa nhật vì không còn chỗ nữa. Mục sư nói rằng để ông dẫn cô bé vào lớp và nói với cô rằng ngày nào đó
họ sẽ có đủ chổ cho mọi người.

Lẳng lặng về nhà sau đó, cô bé Hattie May Wiatt nói với cha mẹ mình rằng em muốn để dành tiền để xây dựng một ngôi thánh đương
lớn hơn, như là một cách khuyến khích, cha mẹ cô Hattie đã cho cô ta làm những việc nhỏ và trả cô ta bằng những đồng xu và cô
đã để dành. Mục sư Conwell kể tiếp câu chuyện:

” Cô bé thật là đáng yêu – nhưng vài tuần sau đó cô lâm bệnh và qua đời; và trong tang lễ cùa cô, cha của cô kể cho tôi một cách
êm lặng là làm thế nào đứa con gái bé nhỏ của ông đã để dành số tiền cho quỹ xây dựng. Và ngay chổ ấy, ông đã đưa lại cho tôi
tiền cô bé đã để dành được – chỉ có vỏn vẹn 57 xu mà thôi.”

Nhiều điều kỳ diệu đã xảy ra sau đó, trong một cuôc họp ban quản trị Hôi thánh (trustees) , MS Connwell nói rằng ông có món
quà 57 xu của cô Hattie, món quà đầu tiên vào ngân quỹ xây dựng đã đươc nêu lên trước đó nhưng ít có ai nhớ mà đề cập đên
bao giờ trong lúc ai cũng nghĩ là một ngôi giáo đường mới chỉ là một khả năng trong tương lai mà thôi. Các vị trong ban quản trị
xúc động và đi tìm đến vị chủ đất trên Broad Street để hỏi mua một miếng đất.

Trong lúc này, 57 tiền xu đã đươc rao bán trong vòng tín hữu để gây quỹ và kết quả họ đươc $250. Năm mươi bốn của 57 tiền xu
đã đươc trả lại và trưng bày trong hội thánh. Nhiều ngân phiếu đươc gửi đến từ những nơi xa gần, trong đó có một ngân phiếu
lên đến $10000, một số tiền khổng lồ lúc ấy. Trong vòng năm năm, món quà nhỏ của cô bé đã tăng lên đến $250,000.

Trong một bài giảng ngày 12/1 (Dec 1) 1912 , vinh danh cô bé Hattie May Wiatt, MS Tiến sĩ Conwell, người thành lâp trường
Đại học Temple University, ông đã nhắc nhở lại cho các tín hữu hiệu ứng của 57 tiền xu đó.

“Nghĩ về ngôi thánh đường to lớn”, ông ây nói. ” nghĩ về trên 5600 tín hữu đã được thêm vào trong hội chúng từ lúc ấy. Nghĩ về
những cơ sở đã được thành lâp. Nghĩ về bệnh viện Samaritan Hospital và hàng ngàn người đã đươc điều trị và chửa lành và hàng ngàn
người nghèo khổ đã được giúp đỡ hàng năm”

Tất cả những điều này đã đươc thành hình từ một món quà 57 xu đơn giản của cô bé. Quá kỳ diệu phải không quí vị, và đúng thế.
Nếu Đức Chúa Trời có thể làm những điều đó từ 57 xu, hãy tưởng tượng mà xem điều Ngài có thể làm với bất cứ điều gì chúng ta
đặt vào tay cùa Ngài. Chẳng hạn như câu chuyện em bé trai đã đưa cho Chúa Giê xu năm cái bánh và hai con cá, “ít ỏi trở nên
nhiểu khi Đức Chúa Trời nhúng tay vào”

Sứ đồ Phao lô nói với các trưởng lão ở hôi thánh Ê phê sô như sau, “Tôi từng bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc
như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.”

Món quà 57 xu của cô bé Hattie May Wiatt đã được Đúc Chúa Trời làm điều lớn lạ. Điều gì bạn sẽ dâng cho bàn tay Đức Chúa Trời?

Dịch từ nguồn 57 Cents that Made History | Grace Bible Baptist Church, Leesburg FL (gbbconline.com)

Khi cây vĩ cầm lên tiếng

Một cây vĩ cầm cũ, bị xây xát, trầy trụa đầy mình, ngay cả người điều khiển cuộc đấu giá cũng không muốn tốn nhiều thời gian cho nó.

Ông ơ hờ giơ nó lên với nụ cười nhẹ: “Tôi sẽ được trả bao nhiêu cho cây đàn cũ này, quý vị?” – ông hỏi – “Ai sẽ bắt đầu ra giá nào!?”; “Một đồng? Một đồng rưỡi. Hai đồng!”; “Chỉ 2 đồng thôi sao?”; “Có ai trả 3 đồng không?”
“Ba đồng đi nào!”; “Ba đồng lần thứ nhất…”.

Từ phía cuối phòng, một ông tóc bạc tiến lên cầm lấy đàn, cẩn thận lau bụi cho nó rồi lên dây… Rồi ông trân trọng dạo lên một giai điệu, một tấu khúc trong trẻo, ngọt ngào.

Như thiên thần bỗng cất tiếng hát. Tiếng đàn réo rắt, bay bổng, đậu thẳng vào lòng người…

Nhạc dứt. Một vài tiếng vỗ tay vang lên khiến cả đám đông bừng tỉnh, rào rào vỗ tay theo.

Dù khúc nhạc đã chấm dứt, nhưng nhiều người vẫn dường nấn ná, đợi chờ. Người điều khiển chương trình lên tiếng: “Giờ ta có thể tiếp tục được rồi!”.

Ông giơ cao cây đàn, đùa: “Một nghìn đồng!”. Liền có người ra giá hai nghìn. “Hai nghìn đồng! Ồ! Ai có thể trả hai nghìn rưỡi, nào! Thật hồi hộp, gay cấn quá phải không?”. “Ồ! Ba nghìn!”. “Có người đã đồng ý trả ba nghìn!”.

“Ba nghìn đồng lần thứ nhất!”; “Ba nghìn đồng lần thứ hai!” – “Ô-kê!” – ông ta hét lên. Nhiều người bàng hoàng, tiếc nuối, riêng người chủ cây đàn bật khóc.

“Sao thế nhỉ? Mọi việc diễn ra nhanh quá! Điều gì đã thay đổi giá trị của cây đàn cũ?” – Một người thắc mắc. Và một người khác trả lời: “Đó là nhờ cái chạm tay của một Nghệ sĩ lớn. Ông ta là nhạc sĩ nổi tiếng trong thành phố…”.


Rất nhiều người có cuộc sống lạc điệu, cũ kỹ, nhàm chán; bị tội lỗi cấu xé tan nát, bị khinh chê, bị trả giá rẻ mạt bởi một đám đông thờ ơ… chẳng khác cây vĩ cầm này.

Một cái lẩu thập cẩm, một ly rượu nhạt. Một trò chơi. Và rồi người ấy tiếp tục cuộc hành trình. Anh ta đi lần thứ nhất. Anh ta đi lần thứ hai. Anh ta bước tiếp, và rồi… Game over! Hết lượt chơi, hết mạng, anh ta biến mất, không để lại dấu vết.

Nhưng, một Nhạc sĩ lớn xuất hiện, đánh thức cái hay, cái đẹp bên trong cây đàn cũ, đánh thức cả đám đông ồn ào, vô tâm: “Đây là một cây đàn rất hay nếu quý vị biết dùng!”.

Có thể không bao giờ bạn thấu hiểu hết giá trị của sự biến đổi, trừ khi bản thân bạn được biến đổi bởi cú chạm tay của một Nghệ sĩ lớn.

Đó chính là bàn tay mang dấu đinh của Đức Chúa Jesus. Bàn tay duy nhất có thể biến đổi thể xác lẫn tâm hồn và tâm linh con người.

Ngay giờ phút này, Đức Chúa Jesus Christ đang đợi để xoay chuyển mặt tối của bạn thành ra mặt sáng đẹp đẽ, “Mọi sự cũ đã qua đi, này, mọi sư đều trở nên mới” (2 Corinthians/ II Cô-rinh-tô 5:17).

Vậy, hãy lắng tiếng Chúa gọi bạn: “Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau… Dầu tội các ngươi như hồng điều sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son cũng trở nên trắng như lông chiên” (Isaiah/Ê-sai 1:18)

Myra Brooks

(Tin Lanh Library)

Lễ Tạ Ơn, Trả Dứt Nợ/ Hội Chợ Thiếu Nhi Ngày 27/11/2022

Lễ Tạ Ơn, Trả Dứt Nợ/ Hội Chợ Thiếu Nhi Ngày 27/11/2022

ht loi chua pay off morgate

Sau hơn 10 năm , HTLC đã trả dứt số nợ vay $475,000. Các vị mục sư trong HT đại diện để làm nghi thức tượng trưng trả dứt nợ

Cảm Tạ Ơn Chúa đã cho một buổi Lễ Tạ Ơn rất có ý nghĩa. Năm nay Hội Thánh Tin Lành Lời Chúa trả dứt nợ Mortgage cơ sở. Nhân dịp Lễ Tạ Ơn Hội Thánh tổ chức một nghi thức kỷ niệm ngày trả dứt nợ. Sau giờ nhóm Hội Thánh cũng tổ chức một hội chợ cho thiếu nhi trong Hội Thánh. Cảm tạ ơn Chúa vô cùng!

Link xem thêm hình: https://drive.google.com/drive/folders/1wZ47ARHOFGhoM_kW1GY4OA4_2qnKaDvY?usp=sharing

Tấm lòng tạ ơn

Thái Độ Đẹp Lòng Chúa: Lòng Tạ Ơn

Attitude That pleases God: A Thankful Heart – Mục sư Ngô Việt Tân
1Tê-sa-lô-ni-ca 5:12-24

Trong cuộc sống trần thế, con người thường khao khát và tìm kiếm những triết trí sống, nhân sinh quan lành mạnh, những nhu cầu tâm sinh lý, và niềm tin cho cuộc sống hằng ngày. Trong xã hội Tây Phương, tại sao nhiều người đã phải đi tìm kiếm sự hỗ trợ tư vấn tâm linh mỗi khi đối diện với những thời khủng hoảng hay lúc đau bệnh? Nguyên nhân nào khiến con người phải kêu cầu cùng Thiên Chúa phù hộ, an ủi, và thêm sức trong cơn hoạn nạn, lúc đau thương, và giây phút tuyệt vọng?

Tiến sĩ Jacqueline R. Mickley và các Nhà Nghiên Cứu khác đã dầy công nghiên cứu về “Tôn Giáo và Sức Khỏe Tâm Thần”, và họ đã thẩm định thế nào niềm tin tâm linh ảnh hưởng sâu đậm đến sức khỏe của con người như đời sống tâm linh:

• Tâm linh giúp chúng ta sống lành mạnh.
• Tâm linh kiến tạo mối quan t âm và sự kết hợp
• Tâm linh làm giảm sự căng thẳng qua lời cầu nguyện
• Tâm linh giúp chúng ta tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống
• Tâm linh kết nối chúng ta với những người khác.

Các Nhà Nghiên Cứu này nghĩ rằng tâm linh là rất cần thiết cho cuộc sống. Qua nhiều cuộc nghiên cứu, họ cho biết rằng những người sống với niềm tin sâu nhiệm có khuynh hướng ít có nguy cơ bị bệnh trầm cảm, lo lắng, và yếu kém chức năng tìm tòi, và có bản lỉnh mãnh mẽ, lòng cảm thông, và kỷ năng giao tiếp.

Khi con người đặt niềm tin vào Thiên Chúa cách chân thành và sâu đậm, lòng biết ơn và tạ ơn là định hướng của đời sống tâm linh. Lòng tạ ơn luôn nhìn xem mọi hoàn cảnh của nan đề và khuyết điểm như là những cơ hội, các thử thách như công cụ để tôi luyện, và sự thất bại như bài học cho cuộc sống.

Tại Canada, người dân Canada rất trân quý ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) và Chúa Nhật thứ hai của tháng 10 hằng năm, với thái độ cảm tạ và lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban nhiều ơn phước trong năm tháng qua. Tại Hoa Kỳ, người dân Mỹ tổ chức Lễ Tạ Ơn vào Thứ Năm của tuần cuối tháng 11 vào mỗi năm rất trang trọng và mang nhiều ý nghĩa niềm tin Cơ-đốc bởi vì họ chỉ bày tỏ tấm lòng biết ơn Thiên Chúa yêu thương, quang phòng, và ban phước.

D. Waitley nói rằng “Hạnh phúc không thể được du hành, được chiếm hữu, được nhận lãnh, được mặc lấy hay tận dụng. Hạnh phúc là kinh nghiệm tâm linh của đời sống mỗi phút với tình yêu, ân điển, và lòng biết ơn.” Thomas Merton cũng chia sẻ “Bày tỏ lòng biết ơn là nhận thức tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong mọi điều mà Ngài ban cho chúng ta…”

Ý niệm biết ơn Trời đã ăn sâu vào lòng dân Việt qua các câu ca dao và tục ngữ như:

“Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu.”

Dân Việt chúng ta cũng nhận biết Ông Trời là Đấng Tạo Hóa, Đấng Tể Trị muôn loài, và tin rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Ví thế, người Việt chúng ta luôn khẩn xin:

Lạy trời mưa thuận gió hoà Để cho chiêm tốt mùa tươi em mừng Ngô khoai chẳng được thì đừng Có nếp, có tẻ trông chừng có ăn.

Trời nắng hạn cũng khiến con người đáng lo lắng. Trời mưa ngập lụt thì cũng làm điêu đứng mọi người. Vì thế, có người cầu xin Trời:

“Lạy ông nắng lên, Cho trẻ nó chơi Cho già bắt rận Cho tôi đi cày.”

“Lạy trời mưa xuống Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp.”

Thi sĩ Cơ-đốc Thanh Hữu tuyệt tác bài thơ “Lời Tạ Ơn” nhằm mô tả Ơn Trời thật bao la, Tình Trời rất thành tín, và Nước Trời luôn mở rộng cho những ai muốn tận hưởng hồng ân cứu chuộc của Ngài.

Anh đang sống trong khung trời miễn phí, Biết bao điêù, hưởng thụ chẳng cần mua. Biết bao điêù, sử dụng đến dư thừa, Không phải trả, một đồng xu cắc bạc.
Anh đang sống giữa khung trời bát ngát, Không khí đầy thở mãi chẳng hề ngưng. Dòng sông xanh nước chảy mãi không ngừng, Anh uống mãi không bao giờ khô cạn.
Ôi Thiên Chúa nguồn cung nhu vô hạn, Cho muôn loài, vạn vật, cho phàm nhân. Ngài đưa tay bao sinh vật vui mừng, Ngài lánh mặt, muôn vật đêù bối rối.

…Tạ ơn Chúa, bởi tình yêu thiên hựu Ngài dẫn đường đưa lối đến thiên cung Dù bảo giông, dù sóng gió mịt mùng Linh Thánh Chúa cầm tay con cùng bước.
Tạ ơn Chúa, Danh Giê-xu uy lực Ban uy quyền chiến đấu thắng ma vương Để phá tan những cám dỗ cản đường Để con bước trọn linh trình hạnh phước.
Tạ ơn Chúa, Ngài thăng thiên về trước Sắm thiên đàng, tiếp rước Cơ Đốc Nhân Ngày tái lâm của Chúa đến rất gần Con trông đợi ngày tương phùng vinh hiển.

Người Việt chúng ta luôn bày tỏ lòng biết ơn với người giúp đỡ mình, Đấng Tạo Hóa nên con người và ban phước cho con người. Bài thơ “Nhớ Nguồn” do tác giả Hồng Ân chia sẻ:
Người ơi, uống nước nhớ nguồn,

Từ dòng suối mát tràn tuôn tháng ngày? Khi người có được hôm nay, Được đời sung túc do tay ai làm? Phải chăng Chúa tạo đời phàm, Trời mây, non nước, muôn ngàn cây xanh? Ngài ban hơi thở trong lành, Cho đàn chim hót trên cành mừng vui… Cho mùa mưa nắng tới lui, Đem nguồn nước mát làm tươi ruộng đồng, Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, Núi rừng muôn thú, biển sông tạo thành… Phải chăng Chúa – Đấng quản canh, Là Cha Tạo Hóa, nhân lành yêu thương? Ai ơi chớ có lạc đường, Làm người nên biết quê hương cội nguồn, Để ta khỏi sống luôn tuồng, Tránh đường hư nát như luồn gió bay!

Từ ngữ “thankfulness – sự biết ơn, lòng biết ơn, sự cảm ơn” được ghi chép lại khoảng 169 lần trong 162 câu Kinh Thánh qua Bản Dịch Kinh Thánh NASB. Trong các Thư tín của Sứ đồ Phao-lô, Từ ngữ “cảm ơn, biết ơn – Thankful, thankfulness” được ghi chép lại khoảng hơn 40 lần và 7 lần trong Cô-lô-se 1:2,3,12; 2:7; 3:15,17; 4:2.

Khái niệm của từ “sự biết ơn, lòng biết ơn, sự cảm ơn – thankfulness ” được diễn đạt qua 2 thuật ngữ Hi-lạp. Từ thứ nhất là “charizomai”, trích từ chữ “charis” nghĩa là ân điển “grace.” Từ thứ hai là “homologeo” trích từ chữ “to confess, acknowledge” (Heb. 13:15) nghĩa là xưng tội, tuyên xưng, thừa nhận, (cf. also exomologeo, Matt. 11:25). Sự tạ ơn hay lòng biết ơn là sự bày tỏ bằng tâm trí hay lời nói qua sự thừa nhận và lòng biết ơn về ân điển, ơn phước, và quyền tể trị của Ngài trên đời sống của con người và thế gian.

Nguồn gốc của Lễ Tạ Ơn tại Hoa Kỳ được ghi chép lại cuộc di dân đầy nguy hiểm của những người gốc Âu Châu đã vượt đại dương để tìm tự do tôn giáo, tìm kiếm cơ hội cho cuộc sống tương lai. Những người di dân (the Pilgrim settlers) đã bắt đầu tổ chức Lễ Tạ Ơn vào mùa Đông năm 1621 tại Hoa Kỳ. Được biết mùa Đông đầu tiên khi họ đặt chân tới Massachusetts, trong số 102 người đã có 44 người đã bị giết. Thức ăn hằng ngày của họ là bắp (corn). Những người di dân gốc Âu Châu đã tổ chức Lễ Tạ Ơn Chúa bởi vì Chúa cho họ còn sống sót sau Mùa Đông giá lạnh, họ được Chúa ban cho mùa màng gặt hái tốt đẹp, Chúa đã che chở mạng sống của họ hầu không bị người dân Da đỏ giết hại. Họ cũng cảm tạ Chúa đã cho họ tìm kiếm được 20 mẫu đất Anh (acres) để canh tác cho mưu sinh, và người thông dịch thông hiểu tiếng Anh và tiếng thổ dân Da Đỏ (the Indians) ở Squanto nhằm giúp cảm thông nhau và cùng nhau xây dựng cộng đồng hài hoà. Năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln đã chính thức chọn ngày Thứ Năm cuối tháng 11 làm Ngày Lễ Tạ Ơn Thiên Chúa.

Đối những người Việt chúng ta đã trải qua hành trình vượt biển vào cuối thập niên 1977 đến 1980 và 1990, một người Việt chúng ta đã không may phải bị chết trên biển cả bởi vì bệnh tật, hải tặc giết chết, chết khát, chết đói, và bị giông bảo chôn vùi xuống đại dương. Tháng 5, năm 1979, tôi và hai gia đình của người anh và người chị đã được Chúa che chở trên con thuyền KG 0602 xuất hành tứ Rạch Giá (cửa biển Tắc Cậu) nhỏ trên dưới 500 người lớn trẻ em đến hòn đảo xinh đẹp Pulau Tanga, Malaysia bình an. Mặc dầu phải trải qua những cơn bảo kinh hoàng trên biển, và sự cướp bốc do 7 chiếu tàu hải tặc Thái Lan (thật ra họ là những tàu đánh cá Thái Lan) cứ mỗi ngày là hai chiếc tàu hải tặc Thái Lan cập vào hai bên tàu và cướp sạch từ Đô-la US, vàng bạc, quần áo, và các đồ đạc có giá trị. Nhưng cảm tạ Chúa vào ngày thứ 5 mặc dù thức ăn và nước uống đã cạn kiệt, Chúa đã cho có một chiếc Tàu Tây Đức dài hơn 100 mét đã cứu vớt tất cả và dùng tàu dầu (xà lang) chuyên chở và đưa tất cả mọi người vào Trại tị nạn tại Đảo Pulau Tanga, Malaysia ngày 15, tháng 5, năm 1979 cách bình an và tràn đầy hi vọng để sống còn.

Với lòng biết ơn về sự cứu giúp của Thiên Chúa trên cuộc hành trình vượt biển đầy hiểm nguy và thách thức, chúng tôi đã tận hiến cuộc đời của mình để hầu việc Ngài qua hành động phụng vụ, hết lòng hết ý hết năng lực kính yêu Ngài hầu dâng mọi Vinh Quang cho Ngài.

Cộng đồng người Việt t ại Hoa kỳ đã mang ơn và biết ơn đất nước Hoa kỳ đã mở rộng lòng nhân ái tiếp đón gần 2 triệu người Việt tị nạn và di dân sang định cư trong suốt hơn 40 năm qua. Hàng ngàn Nhà Thờ Tin Lành và Công Giáo và các cơ quan chính quyền Hoa kỳ đã bảo trợ, tài trợ và nhiệt tình giúp người Việt chúng ta hầu có thể hội nhập vào đời sống mới tại quê hương thứ hai thứ ba. Để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa của Đất nước Hoa kỳ là quốc gia được xây dựng trên nền tảng của Cơ- đốc-giáo – đức tin, hi vọng và tình yêu thương. Nhiều người Việt đã bày tỏ lòng ghi ơn đất nước Mỹ qua sự đóng góp tài năng của mình qua lãnh vực Khoa học, Quân sự, Chính trị, Thương mãi, và Tâm Linh… Theo SBTN.TV cho biết rằng:

Ông Lương Xuân Việt là người Mỹ gốc Việt đầu tiên được thăng cấp Chuẩn tướng lục quân. Vị Tướng gốc Việt thứ hai là Chuẩn tướng Lapthe Flora thuộc vệ binh quốc gia. Vị Tướng gốc Việt thứ ba là Đại tá TQLC William H. Seely III, sẽ được chính thức thăng cấp trong thời gian sắp tới. Hiện nay Sĩ quan Hoa Kỳ gốc Việt mang cấp Đại tá có khoảng 60 vị, họ đang giữ vai trò chỉ huy tại các Quân chủng, Hải, Lục, Không quân, Thủy quân lục chiến và Đoàn y tế công cộng (USPHS). Một số vị hội đủ thâm niên cấp bậc đề có thể được đề cử thăng cấp Chuẩn tướng hoặc Phó đề đốc trong tương lai.

Chắc quí vị cũng đã trải nghiệm nhiều ơn phước Chúa ban trên cuộc đời của mình? Là con dân của Nước Trời, có bao giờ quí vị nói và bày tỏ thái độ biết ơn và hành động cảm tạ của mình với Thiên Chúa cách cụ thể chưa? Bởi vì, người thật sự biết ơn và tạ ơn Thiên Chúa là người luôn:

1) Người biết ơn và tạ ơn Chúa là người làm theo lời Ngài dạy bảo trong Thánh Kinh.
2) Người biết ơn và tạ ơn Chúa là người luôn dâng hiến tiền bạc, thì giờ, và năng lực để xây dựng nhà Ngài.
3) Người biết ơn và tạ ơn Chúa là người đi ra chia sẻ về ơn cứu rỗi của Chúa cho những người khác.
4) Người biết ơn và tạ ơn Chúa là người tận hiến tâm tình đời sống mình hầu việc Chúa.
5) Người biết ơn và tạ ơn Chúa là người luôn kính yêu Chúa qua nếp sống đạo của mình.

Hãy cùng nhau suy gẫm lời Chúa dạy trong Kinh Thánh thế nào Thái Độ Đẹp Lòng Chúa qua Lòng Biết Ơn Thiên Chúa.

Thái Độ Đẹp Lòng Chúa: Lòng Tạ Ơn An Attitude That pleases God: A Thankful Heart
1Tê-sa-lô-ni-ca 5:12-24

1. Thái Độ Cảm Tạ Chúa Là Gì?

A) Khi chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta tôn kính Chúa

“Tất cả mọi điều ấy đều được thực hiện vì cớ anh chị em để khi ân sủng gia tăng cho nhiều người hơn thì càng có nhiều người cảm tạ Chúa hơn, để đem lại vinh quang cho Đức Chúa Trời. 16 Cho nên chúng tôi không nản lòng, trái lại dù con người bên ngoài của chúng tôi bị suy tàn, con người bên trong chúng tôi cứ đổi mới mỗi ngày. 17 Vì hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng tôi đem lại cho chúng tôi vinh quang vô hạn đời đời không gì sánh được. 18 Vì chúng tôi không chú tâm vào những sự vật hữu hình, nhưng vào những sự vật vô hình vì sự vật hữu hình chỉ là tạm thời, còn sự vật vô hình mới là vĩnh cửu.” (2 Cô-rinh-tô 4:12)

“Vì họ đã biết Đức Chúa Trời nhưng không tôn vinh cảm tạ Ngài là Đức Chúa Trời, trái lại họ suy tưởng những chuyện hư không và lòng dạ ngu dốt của họ ra tăm tối. 22 Tự cho mình là khôn ngoan, họ đã trở thành ngu dại, 23 đổi vinh quang của Đức Chúa Trời bất diệt ra giống như hình tượng của loài người hư nát, của chim trời, của thú đồng và loài bò sát. 24 Vì thế theo dục vọng của lòng họ, Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ đắm chìm vào trong sự nhơ nhuốc đến nỗi họ cùng làm nhục thân thể mình với nhau. 25 Họ đổi chân lý Đức Chúa Trời lấy điều giả trá và thờ lạy, phụng sự tạo vật thay vì Đấng Tạo Hóa, là Đấng đáng được chúc tôn đời đời, A-men.” (Rô-ma 1:21-25)

B) Khi chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta vâng lời Chúa

“Hãy cảm tạ mà vào các cổng Ngài; Hãy ca ngợi mà vào sân Ngài; Hãy cảm tạ Ngài, hãy ca ngợi danh Ngài. 5 Vì CHÚA là thiện; tình yêu thương Ngài vẫn còn mãi mãi; Lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.” (Thánh thi 100:4)
“trong mọi hoàn cảnh, hãy cảm tạ vì đây là ý muốn Đức Chúa Trời cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:18)
“Hãy để sự bình an của Chúa Cứu Thế ngự trị trong lòng anh chị em. Đức Chúa Trời đã kêu gọi anh chị em hợp nhất trong một thân thể; lại phải biết ơn. 16 Hãy để lời Chúa Cứu Thế sống phong phú trong lòng anh chị em với tất cả sự khôn ngoan. Hãy dạy dỗ, khuyên răn lẫn nhau, hết lòng hát thánh thi, thánh ca, linh khúc với lời cảm tạ để ca ngợi Đức Chúa Trời. 17 Bất cứ điều gì anh chị em làm, dù trong ngôn ngữ hay hành động, hãy nhân danh Chúa Giê-su mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời là Cha.” (Cô-lô-se 3:15,17)

C) Khi chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn về ân điển của Ngài thay vì sống trong sự cay đắng, phàn nàn, và lằm bằm.
“Hãy thận trọng để trong anh chị em đừng có ai hụt mất ân sủng của Đức Chúa Trời; đừng để rễ cay đắng mọc ra gây rối và do đó làm ô uế nhiều người.” (Hê-bơ-rơ 12:15).

D) Khi chúng ta tạ ơn Chúa, chúng ta sẽ trông cậy vào Chúa

“Trong mọi việc, anh chị em hãy luôn luôn nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta, cảm tạ Đức Chúa Trời là Cha.”(Ê-phê-sô 5:20). “trong mọi hoàn cảnh, hãy cảm tạ vì đây là ý muốn Đức Chúa Trời cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:18).

“Hãy ca ngợi Chúa, Ngài mang gánh nặng cho chúng ta hằng ngày, Tức là Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta. 20 Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nhờ CHÚA là Chúa mà chúng ta thoát khỏi sự chết.” (Thánh thi 68:19,20).

2. Thái Độ Cằn Nhằn, Lầm Bầm Có Tội Không?

A) “Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những cảnh gian khổ khó khăn. CHÚA nghe liền nỗi thạnh nộ; CHÚA cho ngọn lửa cháy lên giữa vòng dân sự thiêu đốt nơi đầu cùng trại quân. 2 Dân sự kêu cứu Môi-se; Môi-se cầu nguyện cùng CHÚA thì lửa ngưng cháy. 3 Địa điểm này được gọi là Tha-bê-ra vì ngọn lửa của CHÚA đã thiêu đốt giữa dân sự.” (Dân số 11:1-3).
B) “Hãy làm mọi việc mà không càu nhàu hay cãi cọ 15 để anh chị em trở nên không có gì đáng trách, tinh khiết, là con cái Đức Chúa Trời không tì vết giữa một thế hệ gian ác, đồi trụy. Anh chị em hãy chiếu sáng trong thế hệ đó như những vì sao trong thế gian.” (Phi-líp 2:14,15).

3. Lợi Ích Của Một Đời Sống Tạ Ơn Chúa

A) Chúa ban sự bình an – “Người nào có tâm trí kiên định, Ngài ban cho sự bình an hoàn toàn Vì người tin cậy nơi Ngài.” (I-sa 26:3).

B) Chúa yêu thương và thành tín với chúng ta đời đời – “Hãy cảm tạ mà vào các cổng Ngài; Hãy ca ngợi mà vào sân Ngài; Hãy cảm tạ Ngài, hãy ca ngợi danh Ngài. 5 Vì CHÚA là thiện; tình yêu thương Ngài vẫn còn mãi mãi; Lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.” (Thánh thi 100:4,5).

C) Chúa ban đầy dẫy Thánh Linh -“Đừng say rượu, vì rượu đưa đến trụy lạc, nhưng phải đầy dẫy Thánh Linh. 19 Hãy dùng thánh thi, thánh ca, linh khúc mà đối đáp nhau, hãy hết lòng ca ngợi và chúc tụng Chúa. 20 Trong mọi việc, anh chị em hãy luôn luôn nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta, cảm tạ Đức Chúa Trời là Cha.” (Ê-phê-sô 5:18-20).

Mục sư Ngô Việt Tân

Content retrieved from: http://lib.tinlanhlibrary.info/thai-do-dep-long-chua-long-ta-on.

Lời làm chứng của một Phật tử

Một cựu Phật tử, từng ăn chay thờ Phật suốt 23 năm.

Năm nay (2013), tôi đã ngoài 90 tuổi, ngày tôi được trở về Thiên quốc không còn bao lâu nữa. Tôi không thể nín lặng để mọi việc trôi vào quên lãng. Nguyền xin Chúa sử dụng tôi đến hơi thở cuối cùng, để mang được nhiều linh hồn đến với sự cứu rỗi của Ngài.

Tôi được sinh ra trong một gia đình theo đạo thờ cúng ông bà: ngoài sân có bàn thờ Phật và Thiên, trong nhà có bàn thờ tổ tiên, ông bà, nơi góc nhà có bàn thờ ông Địa. Vào những dịp lễ lớn tôi ăn chay, đi chùa lễ bái, hằng năm thì tụ hợp, ăn uống, làm đám giỗ cho những người đã khuất.

Tôi lập gia đình và có được bảy người con: sáu gái một trai. Cuộc sống cũng có những thăng trầm, biến đổi: từ nghèo túng đến giàu sang, từ một người đàn bà tầm thường bước lên địa vị được nhiều người biết đến qua những thay đổi không ngờ trong cuộc đời; sau những năm tháng chồng tôi thành công trong vài lãnh vực kinh doanh. Tôi nghĩ cuộc đời tôi lúc đó đang đạt được đến đỉnh cao nhất của danh vọng. Gia đình tôi sống rất sung túc và tôi vẫn ở trong sự cuồng tín suốt hơn 24 năm. Tôi mướn vài người giúp việc trong nhà, như: nấu ăn, chăm sóc con cái tôi, dạy kèm cho chúng học, và có tài xế đưa rước. Thì giờ của tôi là theo bạn bè tham gia vào những công tác từ thiện, do các chùa tổ chức. Nào là quyên tiền giúp cô nhi viện, xây chùa, giúp những nạn nhân gặp thiên tai, bão lụt, v.v..

Đến năm 1963, trong vụ đấu tranh đàn áp Phật Giáo của chính quyền, để phản đối, Thượng Tọa Thích Quảng Đức từ chùa Xá Lợi, ở cạnh cây xăng của gia đình chúng tôi tọa lạc tại góc đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, đã tẩm xăng tự thiêu cho đến chết. Hầu hết Phật tử khắp nơi đã tôn ông lên làm thánh tử đạo, qua cái chết can đảm như vậy, mà trái tim vẫn còn. Rồi sau đó, tôi gặp mấy bà bạn của tôi. Họ gieo vào trong đầu tôi cái tư tưởng là: Nhờ tôi đi làm công tác từ thiện nhiều ở các chùa, nên có duyên với Phật pháp, vì thế, Thượng Tọa mới chọn một nơi tự thiêu có liên quan đến gia đình tôi. Những câu nói: “Bà Bảo ơi! đi tu đi! Phật chọn bà rồi!” Chúng thúc giục lòng tôi hơn bao giờ hết.

Từ đó tôi không biết tin ai theo ai nữa, ngày nầy qua ngày nọ, tôi viếng không biết bao nhiêu cái chùa. Ai rủ đi đâu cũng đi, từ Phật Giáo chính tông, qua Phật Giáo khất sĩ, tịnh độ, Đạo Dừa, bà chúa Liễu Hạnh, chùa miễu, am… cùng những tổ chức hành hương xa gần, tôi cũng cuốn gói chạy theo, bỏ nhà cửa chồng con, dấn thân làm công quả trong chùa. Về đến nhà thì cứ lo nấu nướng, mang nồi chảo thức ăn đi đến chùa cho người ta ăn, là tôi vui. Niềm tin của tôi bấy giờ là đặt hết sự tin tưởng vào những gì đang theo đuổi. Trên đời nầy rất khó tin ai. “Nhân vô thập toàn!” Loài người có xu hướng hay nghi ngờ nhau, nên mỗi lần gặp buồn khổ, thử thách, khó khăn nào, thì chạy đến một thần thánh thiêng liêng nào đó, để có đối tượng mà cầu khẩn, nương dựa, mong sẽ được họ giúp đỡ, thay đổi hoàn cảnh cho tốt đẹp hơn.Tôi không thể phân tích và tìm hiểu rõ ràng về triết lý Phật giáo. Vì sự thật là tôi thiếu học vấn, nên trình độ suy xét cho thấu đáo tận tường nguồn gốc tôi không biết gì hết. Tôi chỉ tin theo câu chuyện: Phật Thích Ca là Thái tử Sỉ Đạt Ta, con vua, có vợ con xinh đẹp, một hôm ông giả làm thường dân, đi ra ngoài cung để phải đối diện với bốn cái nghiệp mà loài người không thoát được, là: sinh, lão, bệnh, tử. Rồi, ông bỏ hết để đi tìm chân lý, ép xác, tịnh tâm, tìm đường cứu độ chúng sinh, để cuối cùng chết dưới cây bồ đề. Đó là những gì mà niềm tin của tôi đặt vào, một truyền thuyết, cách đơn giản, không thắc mắc, không nghi vấn. Tâm trí của tôi hoàn toàn không còn lo gì cho gia đình nữa; thậm chí tôi còn ăn chay, nằm đất, độ ngọ (nghĩa là chỉ ăn một bữa ăn vào đúng 12 giờ trưa thôi). Mặc quần áo thì chỉ có màu lam và màu nâu như một phật tử tu tại gia. Tình trạng nầy, gây một phản ứng rất mạnh cho cha mẹ chồng tôi. Ông bà nhìn thấy sự lầm lẫn quá sức của tôi, nên lên tiếng trách mắng chồng tôi không biết dạy vợ, không biết kiềm chế tôi. Trong nhà còn có sáu đứa con gái chưa gả chồng đứa nào hết, tu kiểu nầy ai dám đến mà cưới xin.

Cuối cùng, để giúp cho tôi bớt bỏ nhà đi theo đạo, chồng tôi cho thợ đến xây một nơi thờ cúng, tụng niệm riêng cho tôi trên sân thượng. Phòng nầy không khác gì cái miễu hay cái am. Bàn thờ tam cấp đầy ấp các tượng Phật lớn nhỏ: Phật Thích ca, Phật Quan Âm, Chuẩn Đề nhiều tay, Phật nằm, Phật ngồi, Phật đứng… để không còn một chỗ trống. Thậm chí, tôi còn nuôi một bà già trong nhà, để chỉ đốt nhang không dứt trong nơi nầy. Tôi chưa hề bước chân vào bất cứ trường lớp nào trong đời. Chồng tôi có dạy sơ cho tôi biết đánh vần, đọc được vài ba chữ. Vậy mà, ngày đêm tôi cứ tụng niệm kinh Bà La Môn, kinh Địa Tạng, là những bộ kinh lớn trong Phật Giáo. Tôi tụng như con két, không biết tụng cái gì, cầu xin cái gì. Tôi được biết đó là tiếng Phạn, một thứ ngôn ngữ mà không có ai còn dùng để đối thoại trên thế giới nầy.

Vào năm 1979, Chúa đã có chương trình cho gia đình chúng tôi rời khỏi Việt Nam. Chồng tôi tham gia vào công tác khảo sát, trục vớt của chính quyền Cộng Sản, để tìm những chiếc tàu hoặc xà lan đã chìm dọc theo bờ biển miền nam. Nhờ đó, gia đình tôi có cơ hội vượt biển, đi tìm tự do. Việc nầy nếu không bởi Chúa sắp đặt, thì không bao giờ cả gia đình tôi cùng nhau được đến Mỹ. Sau những lần bị hải tặc Thái Lan cướp hết tài sản đã mang theo. Tất cả mọi người đều trải qua những giây phút hãi hùng nhất trong đời. Miệng tôi không ngớt gọi bốn phương chư Phật, tất cả các tên thần thánh gì tôi biết được, tôi kêu van, cầu khẩn, xin họ phù hộ, cứu độ. Tôi nhìn thấy chiếc tàu nào của bọn cướp cũng đều có hình Phật Thích Ca ngay đầu tàu. Tên cướp Thái Lan nào cũng đeo tượng Phật trên cổ. Tại sao chúng có thể đi cướp của, hảm hiếp những người đàn bà, con gái yếu đuối, và giết người nữa. Phật ở đâu sao không ngăn chận chúng? Tôi chới với trong niềm tin của chính tôi!

Cuối cùng, sau những trận cướp tàu, chúng tôi lạc vào một hoang đảo. Vừa đói vừa khát, chúng tôi không nghĩ gì hơn là phải tìm được cái gì để uống và ăn. Phép lạ đã xảy ra, ban cho chúng tôi một dòng suối ngọt mát, và những con ốc nhỏ làm đồ ăn; nhưng tôi đã có lời thề nguyền là ăn chay cho đến chết (chết cũng ngậm miếng đồ chay trong miệng), nên tôi chỉ uống nước thôi. Quá kiệt sức, nhiều lần tưởng như gần chết, tôi không hề nghĩ đến ngày mai hay những ngày kế tiếp sẽ ra sao.

Cuối năm 1979, gia đình chúng tôi được định cư ở Mỹ, tại thành phố Santa Barbara thật đẹp, nằm ngay bờ biển miền nam California. Sống tại đây được hai năm, thì vợ chồng tôi được Chúa mở đường cho dọn về San Diego, nơi thành phố có đông người Việt Nam đứng vào hàng thứ ba trên đất Mỹ. Tôi vẫn tiếp tục tụng niệm hằng ngày; và sau hơn 23 năm ăn chay, cơ thể của tôi bị thiếu dinh dưỡng trầm trọng, kèm theo chứng bệnh thấp khớp hành hạ khắp thân người. Hai cái đầu gối của tôi bị đóng vôi, nên sưng nhức đêm ngày. Tôi đến bác sĩ khám, và họ nói tôi cần phải giải phẫu, để thay đầu gối mới. Sau đó, vì thủ tục xin trợ cấp y tế (medicare) hơi khó khăn, nên bác sĩ đề nghị tôi mổ cả hai đầu gối cùng một lúc. Bác sĩ phụ trách ca giải phẫu nầy cho biết, đây là lần đầu tiên, ông ta thay đầu gối cả hai chân cho một bệnh nhân.

Trong thời gian trước khi quyết định giải phẫu, có vài con cái Chúa đến thăm viếng vợ chồng tôi và giới thiệu về Đức Chúa Jesus; nhưng tôi vẫn cứng lòng, từ chối với lý lẽ: ông bà theo đạo nào con cháu cứ giữ như vậy mà tin theo. Tôi có niềm tin của tôi, các ông bà có niềm tin của các ông bà. Sự kiên nhẫn thăm viếng của ông bà Mục Sư Đặng Minh Lành đã đem chồng tôi đến với Chúa trước. Tôi cứng lòng như Pha-ra-ôn, cho dù Môi-se có nói gì hay làm phép lạ gì đi nữa, cũng không tin. Nỗi lo sợ cho ngày lên bàn mổ gần kề, đến với tôi. Con cái Chúa vẫn tiếp tục thăm hỏi và cầu thay cho tôi.

Hai đầu gối của tôi được thay thế bằng hai đầu gối inox, rất là khó khăn khi tập cử động. Tôi phải ngồi xe lăn cả mấy tháng. Một hôm, có Giáo Sĩ Herman Hayes đến giảng bằng tiếng Việt tại Hội Thánh Tin Lành ở San Diego. Con cái Chúa đến thăm tôi, rủ tôi đi nghe Lần đầu tiên tôi nghe một người Mỹ giảng bằng tiếng Việt. Tôi được biết là ông đã từng sống 16 năm tại Việt Nam. Vợ chồng tôi tò mò, muốn đi đến nghe thử xem sao. Chủ đề của bài giảng là: “Nên Đặt Đức Tin Nơi Ai?” Vì mọi việc trên thế gian nầy đều có thời kỳ của nó, không có điều gì có thể tồn tại mãi. Có sinh, có tử, có nghèo, có giàu, có lúc đau khổ, rồi cũng có thời sung mãn, có lúc hưng thịnh, cũng có khi thất bại, nên biết tin vào ai trên đời nầy? “Nhân vô thập toàn!” Thánh Kinh có chép: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23). “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:12). Giáo sĩ còn nhấn mạnh trong bài giảng về bốn điều tiên đoán trong Thánh Kinh, là: Sự giáng sinh, sự hy sinh trên thập tự giá để cứu chuộc nhân loại, sự sống lại, và sự tái lâm của Đức Chúa Jesus. Ba sự kiện đã xảy ra rồi và con dân Chúa hiện nay đang mong đợi điều cuối cùng sẽ xảy đến nữa mà thôi. Duy nhất, chỉ duy nhất có Đức Chúa Jesus là Đấng đã chết và sống lại trên thế gian nầy mà thôi. Tin Lành đang thờ Đấng sống. Ngay lúc đó, Chúa Thánh Linh thúc giục lòng tôi một cách thật mạnh mẽ. Rồi, trong giờ kêu gọi của giáo sĩ, tôi rời chiếc xe lăn tay, bước lên tin nhận Chúa trước sự kinh ngạc của mọi người. Nhiều người cảm động, đến ôm tôi và khóc ào lên.

Đêm đó, ma quỷ không muốn mất tôi. Nó cố tình giành giựt linh hồn tôi và níu kéo tôi trở lại. Nó khiến cho hai lỗ tai tôi luôn nghe tiếng tụng kinh, gõ mõ, đánh chuông. Tôi không ngủ được. Mãi gần đến sáng, tôi chập chờn trong giấc mơ. Tôi thấy tôi đang chạy xuống một dốc núi, thì đàng sau lưng có một hòn lửa tròn lăn theo. Tôi mệt quá, té nhào xuống đất, thì hòn lửa đó lăn qua khỏi tôi rồi nổ tung ra. Một người mặc áo trắng toát, tôi không nhìn thấy mặt, nhưng nghe tiếng nói bên tai: “Ta là Chân Lý, Đường Đi, và Sự Sống! Chính Ta đây!” Rồi, người ấy biến mất. Tôi giựt mình thức dậy, nói với ông nhà tôi, gọi ngay cho Mục Sư Lành để thuật lại giấc chiêm bao. Mục sư chạy đến ngay, cầu nguyện cho tôi, và cho biết, tôi đã thật sự gặp được Chúa và Ngài đã chọn tôi. Mục sư đề nghị chở tôi ra tiệm vàng gần nhà, để mua tặng tôi một sợi giây chuyền vàng 18k, có cây thập giá đeo vào cổ, để kỷ niệm. Với tâm lý thường tình của một người đàn bà vừa chập chững bước đến với Chúa như con trẻ, tôi vui mừng tiếp nhận món quà lớn nhất từ Đức Chúa Trời, là tiếp nhận Con của Ngài làm Cứu Chúa của đời tôi, và món quà nhỏ từ vị mục sư, để tôi có được cảm nhận là tôi đã thuộc về Chúa rồi.

Sau đó, tôi tập tành ăn thịt và cá, để bồi dưỡng sức khỏe sau cuộc giải phẫu lớn vừa qua. Tôi quyết định dẹp bàn thờ, bắt đầu đọc Thánh Kinh và đi nhóm họp thờ phượng Chúa hằng tuần. Vợ chồng tôi cũng thường tổ chức những buổi nhóm cầu nguyện tại nhà. Đức Chúa Trời bắt đầu chương trình của Ngài thật quá tuyệt diệu trên đời sống của vợ chồng chúng tôi. Ông nhà tôi rất thích sửa xe, nên mua những chiếc xe cũ về, tân trang lại và bán rẻ cho anh em nào trong Hội Thánh cần phương tiện di chuyễn.

Vào đầu năm 1981, có rất ít Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ở vùng San Diego. Ông nhà tôi phối hợp với một vài con cái Chúa, để tổ chức nhóm thờ phượng Chúa tại tư gia. Sau đó, bị hàng xóm phàn nàn vì tình trạng đậu xe đông trước cửa. Ông nhà tôi đến gặp vài mục sư của Hội Thánh Mỹ, để xin họ giúp đỡ cho việc thành lập Hội Thánh Việt Nam. Sau đó một thời gian, chúng tôi mời được Mục Sư Đặng Ngọc Báu đến quản nhiệm Hội Thánh. Để phát triển Hội Thánh, nhà tôi và tôi tình nguyện lấy danh sách của các đồng hương Việt Nam đi định cư tại Mỹ theo diện HO, con lai, và đoàn tụ gia đình, qua những cơ quan thiện nguyện như USCC, IRC, CWS. Chúng tôi ra tận các sân bay LAX, San Diego để đón họ, rồi đưa về những căn hộ đã mướn sẵn. Làm việc đó, chúng tôi nghĩ đến kinh nghiệm của chính bản thân mình và khó quên được những ngày đầu đặt chân đến Mỹ. Vì “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm hồ dễ mấy ai quên.” Vợ chồng chúng tôi cùng vài con cái Chúa mang những vật dụng cần yếu đến giúp những người định cư. Từ đó, Hội Thánh thêm rất nhiều người tiếp nhận Chúa. Vợ chồng tôi cũng có rất đông con nuôi, ai cũng thương gọi bằng ba má. Tôi còn nhớ, ông nhà tôi có chiếc xe van cũ, được sửa lại, để chở người đi nhà thờ vào mỗi Chủ Nhật, hay đi nhóm cầu nguyện. Vì muốn chở hết và nhiều, nên ông may màn che hết các cửa hai bên, tránh cảnh sát nhìn thấy, và để thêm những chiếc ghế nhỏ dưới sàn cho họ ngồi. Tấm lòng mong muốn nhiều linh hồn được cứu rỗi của ông nhà tôi, đã để lại những kỷ niệm khó quên trong lòng của những người con cái Chúa, đã từng sống bên cạnh ông nhà tôi.

Qua 31 năm tin nhận Chúa, tôi nhìn lại sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời mình. Trước kia, tôi không hề nghĩ đến những sự sáng tạo của Đấng Tạo Hóa (Ông Trời). Tôi không hề biết có người yêu tôi đến có thể chết thay cho tôi. Tôi không biết tại sao tôi có mặt trên thế gian nầy, đến đây để làm gì, và chết rồi đi về đâu? Những gì tôi thờ lạy, cúng kiến trước kia, có giúp được gì cho tôi đâu! Tôi quỳ lạy, cầu khẩn những cái tượng chạm do con người làm ra: có mắt không nhìn thấy, có mũi không thở được, có miệng không nói, và tay chân không hề cử động. Tượng bằng vàng, đá quý, gổ, thạch cao, xi-măng, v.v., là những gì mà quyền lực tối tăm của các tà linh đang cai trị thế giới, dùng để kiềm chế loài người, khiến họ không biết thờ lạy Đấng đã tạo ra chính mình. Bây giờ, tôi hiểu được mục đích loài người có mặt ở thế gian để làm gì Chúng ta đến đây để nhận lãnh thân thể được tạo dựng giống như Đức Chúa Trời, được sống để biết ơn và thờ kính Ngài. Sau khi rời khỏi thế gian nầy, tôi sẽ trở về nơi mà Chúa muốn những người Ngài yêu, Ngài chọn, sống với Ngài đời đời.

Thưa quý vị, sống trên đời nầy không một ai không có hy vọng. Cái hy vọng của những người theo Chúa là hy vọng xác thực, khi cả thế gian chìm trong tội lỗi, không có một người nào có thể dám nói là mình vô tội. Tôi đưa ra thí dụ: Tất cả đều có tội, đang ở trong ngục tù, thì nhất định phải có một người không tội ở ngoài đến cứu mình ra. Đức Chúa Jesus đã hy sinh, lìa bỏ hết tất cả trên Thiên giới, xuống thế gian làm người. Ngài đã gánh hết tội lỗi của cả nhân loại trên thân mình Ngài; thậm chí chịu đóng đinh cho đến chết trên thập tự giá, và sau ba ngày, Ngài đã từ cõi chết sống lại. Ngài đã đắc thắng tội lỗi và sự chết. Ngài sống lại cho quý vị và tôi niềm hy vọng được sống lại.

Từ một người đàn bà không hề bước chân vào lớp học, bây giờ, Chúa ban cho tôi sự khôn ngoan để đọc và hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh mỗi ngày. Tôi có Đấng Tạo Hóa, Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa để trông cậy và thờ lạy. Tôi kinh nghiệm được những phép lạ, những ơn phước Ngài ban. Sự bình an mà tôi đang có, thế gian không thể ban cho được. Tôi vẫn còn sống khỏe mạnh trong tuổi hơn 90 nầy, để nói lên tình yêu thương của Ngài đã cứu tôi. Tôi nghe và chứng kiến những gì chồng tôi đã thuật lại, trước những giây phút cuối cùng của đời ông. Chúa đã sai thiên sứ đến, để đón tiếp chồng tôi về với Ngài một cách rất tốt đẹp. Quý vị có muốn vào trong giờ phút cuối của cuộc đời mình, được tiếp rước như vậy không? Tôi mong rằng, cuốn sách nhỏ nầy sẽ giúp cho quý vị có một quyết định mạnh mẽ: chọn lại niềm tin cho chính mình! Niềm tin không phải từ tôn giáo mà là tin vào Đấng mà quý vị đặt hết đức tin và hy vọng vào.

Nguyền xin Chúa Thánh Linh hành động trong lòng quý vị, trong thì giờ quý vị đọc và suy ngẫm lời làm chứng của tôi, để quý vị sẽ mở lòng, ăn năn tội và tiếp nhận Đức Chúa Jesus làm Cứu chúa của đời mình. Ngài đang chờ quý vị!

Quả Phụ Nguyễn Thái Bảo (nhủ danh Nguyễn Thị Lịnh)

Sau khi đọc xong lời làm chứng trên đây của tôi, nếu quý vị được CHÚA cảm động, muốn tin nhận ĐỨC CHÚA JESUS làm Cứu Chúa của đời mình, xin hãy hết lòng cầu nguyện theo sự hướng dẫn sau đây:

“Kính lạy Chúa Cứu Thế Jesus,

Ngài là Chân Lý, Đường Đi và Sự Sống. Con nhận biết chính bản thân con là kẻ tội lỗi, không ra chi trước mặt Chúa. Bây giờ, con xin từ bỏ hết những tội lỗi của con trước kia. Con tin Ngài đã chết trên thập tự giá để cứu chuộc con. Xin Ngài tha tội và chấp nhận con vào đại gia đình con cái của Đức Chúa Trời, ghi tên của con vào sách sự sống trên thiên đàng, để con nhận được sự cứu rỗi đời đời. Con xin tuyên xưng Ngài là Cứu Chúa và mời Ngài làm chủ đời sống của con từ nay.

Con cầu nguyện bấy nhiêu lời nầy trong danh Đức Chúa Jesus Christ! Amen!”

Tác giả: Quả Phụ Nguyễn Thái Bảo (nhủ danh Nguyễn Thị Lịnh)

YEMLife Beach Retreat 2022

YEMLife Beach Retreat 2022

Introduction

Link to pictures of 4th year anniversary: https://drive.google.com/drive/folders/1cEb0eutDxJaypOgwbrlB8qNV0BeFuaYm?usp=sharing

The Lord has blessed YEMLife abundantly here at Hoi Thanh Tin Lanh Loi Chua Houston, TX. The Beach retreat was a great reminder of God’s creation and our purpose in life to follow him and to fellowship with one another. Thank God for his blessings and mercies! We hope that the youth here will grow stronger and stronger until the day God calls us home. Amen!!!

Pictures by the Day

Friday Pictures:

https://drive.google.com/drive/folders/1DcPERQG0M3Unk6PpvvOXyTn-jyaAxI9n?usp=sharing

Saturday Pictures:

https://drive.google.com/drive/folders/1FV1ZJZ_A9Y4gsXYcrfgrY5gIWLYG_wTu?usp=sharing

Sunday Pictures:

https://drive.google.com/drive/folders/1HjjZ0RI-ED_EYoZyVvsOW5b2N6F9oZwr?usp=sharing