

Chuẩn bị cho Lễ Thương Khó và Phục Sinh
Ban trang trí, ban phụ nữ, ban thanh niên, ban âm nhạc, và ban tổ chức chuẩn bị cho mùa lễ thương khó và phục sinh tại hội thánh tin lành lời chúa. Các lễ tổ chức tại cơ sở nhà thờ tin lành lời chúa. Xin quý vixem va cam on!

Thứ Hai Tuần Lễ Thánh

“Ai nói mình ở trong Ngài, thì cũng phải làm theo như chính Ngài đã làm” (I Giăng 2:6).
Câu hỏi suy ngẫm: Chúa Giê-xu mong đợi và nhận được điều gì nơi cây vả? Hậu quả của cây vả có lá mà không có trái là gì? Bài học nhắc nhở điều gì cho đời sống con dân Chúa?
Sáng thứ Hai của Tuần Lễ Thánh, Chúa Giê-xu từ làng Bê-tha-ni trở lại Giê-ru-sa-lem “thì Ngài đói.” Ngài thấy một cây vả từ đằng xa nhưng khi lại gần, chỉ thấy có lá mà thôi. Chúa Giê-xu phán: “Chẳng hề có ai ăn trái của mày nữa!” (câu 14). Sáng hôm sau, khi Chúa và môn đệ trở lại thì “thấy cây vả đã khô cho tới rễ” (câu 20). Chẳng lẽ vì “đói” mà Chúa Giê-xu đã quở cây vả trong khi bấy giờ “không phải mùa vả”? Thật ra, Chúa chưa bao giờ làm phép lạ để đáp ứng nhu cầu thể xác của mình. Ngài đã từ chối hóa đá thành bánh sau khi kiêng ăn 40 ngày (Ma-thi-ơ 4:2-4), dù sau đó Ngài hóa bánh cho 5,000 người ăn. Bên giếng nước tại Sa-ma-ri, Chúa cho biết Ngài không để nhu cầu thể xác chi phối vì “đồ ăn của Ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai Ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (Giăng 4:34).
Khác với Sứ đồ Ma-thi-ơ (Ma-thi-ơ 21:18-22), ở đây ông Mác đặt câu chuyện Chúa Giê-xu dẹp sạch đền thờ xen giữa câu chuyện cây vả để chứng tỏ cây vả chính là hình ảnh của đền thờ, là hình ảnh của đời sống thờ phượng của người Do Thái. Cho dù “bấy giờ không phải mùa vả,” nhưng vào khoảng tháng 3 hay tháng 4 vẫn có những cây vả cho ra những trái vả xanh có thể ăn được (Ê-sai 28:4; Ô-sê 9:10; Mi-chê 7:1). Trong trường hợp này, trái vả non sẽ ra trước khi cây vả ra lá, nghĩa là nếu cây vả có lá thì phải có trái vả non đầu mùa, còn nếu cây vả không có trái thì cũng không có lá, nhưng khi cây vả có lá mà không có trái thì đó là một cây vả hư, không kết quả. Cây vả bị rủa khô héo không phải vì không có trái, mà vì có lá mà lại không có trái. Một cây vả cho dù lá có xanh tươi đến đâu, nhưng không thể sinh trái thì thực chất đó là cây vả chết!
Là một cây vả thì PHẢI kết quả, nếu không thì vô dụng và phải bỏ đi. Cũng vậy, đã là con dân Chúa thì PHẢI kết quả thuộc linh, PHẢI giống Chúa và vâng phục Chúa. Một đời sống được tái sinh chắc chắn phải kết quả. Nếu không được thay đổi, không trở nên giống Chúa, không sinh ra những việc lành thì đó không phải là một đời sống được tái sinh (Ê-phê-sô 2:8-10). Hình thức tôn giáo bề ngoài không thể thay thế cho đời sống thuộc linh kết quả. Sự thờ phượng thể hiện bên ngoài phải xuất phát từ tấm lòng được thay đổi bên trong. Những sinh hoạt tôn giáo không có gì sai, nhưng nếu không cẩn thận nó có thể đem đến những ảo tưởng thuộc linh, như cây vả chỉ có lá, có thể đánh lừa người khác và đánh lừa chính mình.
Nếu giờ này Chúa Giê-xu đến, Ngài sẽ nhìn thấy và nhận lấy điều gì nơi đời sống bạn?
Lạy Chúa, xin giúp cho con kinh nghiệm công tác của Đức Thánh Linh trong đời sống để con mỗi ngày giống Chúa và sinh ra những bông trái thuộc linh ngày càng hơn.
Vietnam Ministries, Inc.
Văn Phẩm Nguồn Sống1100 N. Paradise St.Anaheim, CA 92806
Điện thoại: (714) 758-8767Fax: (714) 535-3943E-mail: info@vpns.orgTrang mạng: https://www.vpns.org
Kid Video – Quyển Sách Thần Kỳ
-
QUYỂN SÁCH THẦN KỲ - TRAILER MÙA THỨ 1
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Buổi Sáng Thế - Mùa 1 Tập 1 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Đức Chúa Trời Thử Thách - Mùa 1 Tập 2 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Anh Em Sinh Đôi - Mùa 1 Tập 3 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Ra Khỏi Ai Cập - Mùa 1 Tập 4 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Mười Điều Răn - Mùa 1 Tập 5 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Chạm Trán Người Khổng Lồ - Mùa 1 Tập 6 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Tiếng Gầm Vang - Mùa 1 Tập 7 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Giáng Sinh Đầu Tiên - Mùa 1 Tập 8 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Phép Lạ Của Chúa Giê-xu - Mùa 1 Tập 9 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Bữa Tiệc Cuối Cùng - Mùa 1 Tập 10 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
-
Quyển Sách Thần Kỳ - Chúa Đã Sống Lại - Mùa 1 Tập 11 - Trọn bộ (Bản HD chính thức)
Mùa Thương Khó & Phục Sinh
Thánh ca thập tự xưa – the old rugged cross
Thánh Ca: Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross
Lời Ban Biên Tập:
Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross là một trong những thánh ca được rất nhiều người yêu thích. Chỉ 25 năm sau lần phát hành đầu tiên, hơn 20 triệu ấn bản của bài thánh ca đã được bán hết. Đây là kỷ lục về số bán thuộc bất kỳ thể loại âm nhạc nào cho đến lúc đó. Sau khi được phát hành, trong nhiều thập niên liên tiếp The Old Rugged Cross đứng đầu danh sách những thánh ca được yêu thích nhất. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm The Old Rugged Cross được sáng tác (1913-2013), Thư Viện Tin Lành xin giới thiệu với bạn đọc vài nét về tiểu sử của thánh ca này.
Mục sư George Bernnard (1873-1958)
Tác Giả
Tác giả của thánh ca The Old Rugged Cross là Mục sư George Bennard (1873-1958). Ông sáng tác cả nhạc lẫn lời của bài thánh ca này.
Mục sư George Bennard sinh ngày 4/2/1873 tại Youngstown, một thị trấn nhỏ có nhiều mỏ than và sắt tại Ohio. Cha mẹ của Mục sư George Bennard là ông bà George và Margaret Russell Bennard, là dòng dõi của những di dân từ Scotland. Lúc George Bennard còn nhỏ, cha mẹ ông dọn đến Albia, Iowa; và sau đó cả gia đình định cư tại Lucas, Iowa.
George Bennard là con trai duy nhất trong một gia đình có năm người con. Cha của George Bennard là một công nhân hầm mỏ. Năm 1889, thân sinh của George Bennard bị tai nạn, qua đời; lúc đó George Bennard được 16 tuổi.
Không bao lâu sau khi cha qua đời, George Bennard tiếp nhận Chúa trong một buổi truyền giảng do Salvation Army tổ chức. George Bennard là người yêu mến Chúa; chàng thanh niên mong ước được làm mục sư, trở thành một nhà truyền giảng; tuy nhiên vì là người đàn ông duy nhất trong gia đình, George Bennard phải gác qua ý định đó, đi làm công nhân hầm mỏ một thời gian để giúp mẹ và các chị em.
Tám năm trôi qua, năm 1897, George Bennard kinh nghiệm được Chúa biến cải. Khi đó các chị em trong gia đình đã lớn và cuộc sống gia đình tương đối ổn định; ước muốn được hầu việc Chúa trọn thời gian đã thúc đẩy George Bennard tham gia Salvation Army, một tổ chức truyền giáo Tin Lành hoạt động qua công tác thiện nguyện. George Bennard bắt đầu hầu việc Chúa với Salvation Army tại Rock Island, Illinois. Năm 1898, ông được giao trách nhiệm phối trí tổ chức những buổi nhóm bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Trong thời gian cộng tác với Salvation Army, George Bennard đã gặp và yêu Willaminta. Sau đó, cả hai thành hôn và tiếp tục hầu việc Chúa với Salvation Army. Một thời gian sau, hai vợ chồng được thuyên chuyển về New York.
Năm 1910, George Bennard quyết định trở thành nhà truyền giảng thực thụ. Ông bà từ chức với Salvation Army và tham gia hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Là người yêu mến Chúa và quan tâm đến nếp sống thánh khiết, George Bennard đã được Hội Thánh Giám Lý cử làm mục sư đặc trách cho công tác truyền giảng bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Gia đình Mục sư George Bennard đã chọn thị trấn Albion tại Michigan làm nơi định cư.
Tác Phẩm
Với trách nhiêm của một nhà truyền giảng lưu động, Mục sư George Bennard thường đến giảng tại nhiều hội thánh. Vào đầu thế kỷ 20, những người theo khuynh hướng tự do tìm cách đả phá niềm tin Cơ Đốc. Trước làn sóng tấn công từ bên ngoài, một số tín hữu thiếu hiểu biết Kinh Thánh dao động, Mục sư George Bennard tìm cách giúp các tín hữu hiểu rõ điều mình tin và giữ vững đức tin.
Vào thế kỷ thứ nhất, khi đối diện với những quan điểm sai lầm trong niềm tin Cơ Đốc, Sứ đồ Phao Lô đã viết: “Nguyện tôi không tự hào về điều gì ngoại trừ thập tự của Đức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta; nhờ đó đối với tôi, thế gian đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” Ga-la-ti 6:14. Noi gương Sứ đồ Phao Lô, Mục sư George Bennard đã dành thì giờ suy nghiệm chân lý cứu rỗi qua sự hy sinh của Đức Chúa Jesus trên thập tự cho chính mình. Từ kinh nghiệm cá nhân, Mục sư George Bennard chia sẻ niềm tin đó cho những người chưa biết Chúa và khích lệ những người đã tin Chúa.
Trong các bài giảng, Mục sư George Bennard thường trích dẫn câu Kinh Thánh Giăng 3:16 – “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Mục sư George Bennard cho biết mỗi lần suy gẫm câu Kinh Thánh Giăng 3:16, ông lại học được nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn – đặc biệt trong những lúc ông phải đối diện với khó khăn. Mục sư George Bennard nói thêm mỗi lần đọc lại câu Kinh Thánh này, tâm trí ông thường hình dung một cây thập tự, không phải cây thập tự bằng vàng hay bạc, nhưng là một cây thập tự cũ kỹ thấm máu của Chiên Con Đức Chúa Trời.
Mùa thu năm 1912, tại Albion, Michigan, trong thời gian suy niệm về thập tự, Mục sư George Bennard được thúc giục sáng tác một thánh ca. Mục sư George Bennard cho biết chỉ trong vài phút, giai điệu của bài hát được hoàn tất. Tuy nhiên, về lời ca ông chỉ viết được vài dòng; trong đó câu “I’ll cherish the old rugged cross” cứ lập đi lập lại nhiều lần. Trong vài tuần kế tiếp, Mục sư George Bennard cố gắng viết và sửa lại phiên khúc đầu tiên của bài thánh ca.
Cuối năm 1912, Mục sư George Bennard được mời đến giảng cho Hội Đồng Bồi Linh tại Sawyer Friends Church ở Sturgeon Bay, Wisconsin, nơi Mục sư Frank McCann quản nhiệm. Hội đồng được tổ chức từ ngày 29/12/1912 đến ngày 12/1/1913. Tại hội đồng này, Mục sư George Bennard hoàn tất bản thảo đầu tiên của bài thánh ca The Old Rugged Cross. Đêm bế mạc hội đồng, Mục sư George Bennard cùng với Ed E. Mieras hát bài thánh ca này. Đây là lần đầu tiên thánh ca The Old Rugged Cross được giới thiệu cho công chúng. Mục sư George Bennard và Ed E. Mieras vừa hát vừa đệm đàn guitar; người phụ họa đàn phong cầm là Pearl Torstensen Berg. Theo tin tức của báo Door Co. Dem. phát hành ngày 17/1/1913 tại Sturgeon Bay, hội đồng kết thúc gần 12 giờ khuya. Đêm hôm đó có 148 người tin nhận Chúa.
Trong những tháng kế tiếp Mục sư George Bennard tiếp tục sửa lại lời thánh ca. Cuối tháng 5/1913, Mục sư George Bennard được Mục sư Leroy O. Bostwick mời tham dự chương trình truyền giảng kéo dài hai tuần tại Pokagon, một thị trấn nhỏ thuộc miền tây nam của tiểu bang Michigan.
Trong những ngày tham dự hội đồng, Mục sư George Bennard đã tạm trú tại nhà ông bà Mục sư Leroy O. Bostwick. Như các diễn giả cho hội đồng, Mục sư George Bennard thường dành thì giờ cầu nguyện. Sau một lần tĩnh nguyện, ý tưởng về bài thánh ca lại tuôn tràn. Mục sư George Bennard vội vàng ghi lại cả bốn phiên khúc và điệp khúc của bài thánh ca. Bản hiệu đính của thánh ca The Old Rugged Cross được hoàn tất tại nhà của Mục sư Leroy O. Bostwick.
Ngày 7/6/1913, lời thánh ca hiệu đính của The Old Rugged Cross được trình bày tại First Methodist Episcopal Church ở Pokagon, là hội thánh do Mục sư Leroy O. Bostwick quản nhiệm. Năm người hát thánh ca tại hội đồng là Frank Virgil, Oliver Mars, Clara Virgil, William Thaldorf và Florence Jonen. Trong lần công diễn này, Mục sư George Bennard mời hội chúng ghi lại lời thánh ca và sau đó cùng hát với những người hướng dẫn. Bài thánh ca The Old Rugged Cross được những người tham dự hội đồng hoan nghênh. Vợ của Mục sư Leroy O. Bostwick đã xin phép cho bà được vinh dự góp phần trả tiền làm bản kẽm để in thánh ca.
Nhà thờ của Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Pokagon, Michigan
(Photo credit: http://www.the-oldruggedcross.org)
Mặc dầu được nhiều người hoan nghênh, Mục sư George Bennard vẫn không thỏa lòng với lời thánh ca mà ông đã viết. Sau hội đồng tại Pokagon, Mục sư George Bennard tiếp tục đến truyền giảng tại một số hội thánh thuộc tiểu bang New York. Tạ ơn Chúa! Các chương trình truyền giảng này có nhiều người tiếp nhận Chúa. Mục sư George Bennard chứng kiến nhiều tấm lòng tan vỡ khi cảm nhận được tình yêu thể hiện qua sự hy sinh của Đức Chúa Jesus trên thập tự.
Trở về lại Albion, Michigan, vẫn còn xúc động với những kinh nghiệm phước hạnh từ những hội đồng tại New York, một lần nữa Mục sư George Bennard viết lại phiên khúc của bài thánh ca. Những lời hát mà ông đã trăn trở mấy tháng nay sửa vẫn chưa xong, giờ đây tuôn chảy thật dễ dàng. Mục sư George Bennard cho biết ông viết lại lời thánh ca thật nhanh và chỉ sửa có một chữ. Mục sư George Bennard đã hoàn tất lời thánh ca The Old Rugged Cross như chúng ta có ngày hôm nay.
Sau khi viết xong cả nhạc và lời, Mục sư George Bennard gởi bài thánh ca đến cho Charles H. Gabriel, một nhà biên soạn thánh ca nổi tiếng tại Chicago, để nhờ Charles H. Gabriel soạn hòa âm. Charles H. Gabriel viết hòa âm cho The Old Rugged Cross rồi gởi bản nhạc lại cho Mục sư George Bennard với dòng chữ “You will hear from this song.”
Mặc dầu The Old Rugged Cross được nhiều người yêu thích, trong vài năm đầu thánh ca chỉ phổ biến giới hạn tại một số hội thánh thuộc vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Bài thánh ca được phổ biến rộng rãi sau kỳ hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute. Đại biểu từ nhiều tiểu bang đến tham dự hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute sau khi nghe bài thánh ca đã giới thiệu The Old Rugged Cross đến các hội thánh ở xa. Một thời gian sau, Homer Rodeheaver, người đặc trách âm nhạc cho nhà truyền giảng Billy Sunday, đã mua lại quyền phát hành bài thánh ca The Old Rugged Cross với giá $500. Qua hệ thống phát thanh của nhà truyền giảng Billy Sunday, thánh ca The Old Rugged Cross được loan truyền khắp Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới.
Sau khi sáng tác The Old Rugged Cross, Mục sư George Bennard tiếp tục hầu việc Chúa thêm 45 năm nữa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Trong thời gian này, ông đã sáng tác hơn 350 bài thánh ca nhưng không thánh ca nào để lại ảnh hưởng sâu đậm như The Old Rugged Cross, là thánh ca mà Mục sư George Bennard nói ông chỉ ghi lại những gì Chúa muốn ông viết.
Mục sư George Bennard về với Chúa vào ngày 10/10/1958 tại Reed City, Michigan. Thi hài ông được an táng tại nghĩa trang Inglewood Park Cemetery, Inglewood, California. Sau khi Mục sư George Bennard về với Chúa, những địa phương nơi ông đã sinh sống hay hầu việc Chúa như Albion, Pokagon, và Reed City, đã thành lập những bảo tàng để lưu giữ những tài liệu liên hệ đến Mục sư George Bennard và nguồn gốc của bài thánh ca The Old Rugged Cross.
Năm 1959, khi biết tin quê hương của Mục sư George Bennard dự định thành lập bảo tàng tưởng niệm, Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã viết: “Dự án thành lập nơi tưởng niệm Mục sư George Bennard, tác giả của thánh ca The Old Rugged Cross, và là công dân của quý thị trấn là điều rất tốt. Bài thánh ca này mang số 296 trong Thánh Ca của Lục Quân và Hải Quân. Tôi biết bài thánh ca đã được hát, rất được yêu thích và đã làm mạnh mẽ đức tin của nhiều người.” Mục sư Normal Vincent Peale, một nhà văn và là nhà tư tưởng có nhiều ảnh hưởng, cho biết: “Thánh ca The Old Rugged Cross của Mục sư George Bennard là một trong những thánh ca tuyệt vời nhất đã để lại những ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống tâm linh của tôi.” Mục sư Tiến sĩ Billy Graham nhận định về Mục sư George Bennard như sau: “Chỉ có cõi đời đời mới tiết lộ đầy đủ cống hiến vĩ đại mà Mục sư George Bennard đã làm cho vương quốc của Đức Chúa Trời qua việc cống hiến những tài năng của ông, và đặc biệt qua bài thánh ca The Old Rugged Cross.”
Nguyên Văn
The Old Rugged Cross
1. On a hill far away
Stood an old rugged cross,
The emblem of suffering and shame;
And I love that old cross
Where the dearest and best
For a world of lost sinners was slain.
2. Oh, that old rugged cross,
So despised by the world,
Has a wondrous attraction for me;
For the dear Lamb of God
Left His glory above
To bear it to dark Calvary.
3. In that old rugged cross,
Stained with blood so divine,
A wondrous beauty I see,
For ’twas on that old cross
Jesus suffered and died,
To pardon and sanctify me.
4. To the old rugged cross
I will ever be true;
Its shame and reproach gladly bear;
Then He’ll call me someday
To my home far away,
Where His glory forever I’ll share.
Refrain:
So I’ll cherish the old rugged cross,
Till my trophies at last I lay down;
I will cling to the old rugged cross,
And exchange it someday for a crown.
(Source: United Methodist Hymnal – #504)
Ý Nghĩa
Ý nghĩa của lời thánh ca The Old Rugged Cross trong tiếng Anh được tạm dịch sang tiếng Việt như sau:
- Trên ngọn đồi xa xa, có một cây thập tự cũ kỹ đứng sừng sững
Là biểu tượng cho sầu khổ và sỉ nhục.
Tôi yêu cây thập tự xưa cũ ấy
Nơi Người Yêu Dấu và Cao Quý nhất đã vì thế nhân tội lỗi hy sinh. - Cây thập tự xưa ấy bị thế giới kinh tởm
Nhưng đối với tôi có một sự thu hút diệu kỳ.
Vì Chiên Con yêu quý của Đức Chúa Trời đã lìa nơi vinh quang cao cả
Gánh vác thập tự đó đến đồi Gô-gô-tha. - Đối với tôi, dòng huyết vương trên thập tự ấy thật đáng tôn kính
Bởi vì trên thập tự đó, Đức Chúa Giê-xu đã chịu thống khổ và hy sinh
Nhờ đó mà tôi được tha thứ và thánh hóa. - Tôi sẽ luôn luôn trung thành với thập tự ấy
Vui vẻ chấp nhận sỉ nhục và khinh miệt.
Rồi sẽ có một ngày, Ngài gọi tôi về căn nhà của tôi ở thật xa
Là nơi tôi sẽ chia sẻ vinh quang đời đời của Ngài.
Điệp Khúc:
Tôi yêu quý thập tự xưa,
Nơi tôi trao tất cả những vinh quang của mình.
Tôi sẽ gắn bó với cây thập tự cũ ấy;
Và sẽ có ngày, tôi đổi thập tự đó để nhận mão miện hiển vinh.
Lời Việt
Bài The Old Rugged Cross được dịch sang tiếng Việt với tựa đề Thập Tự Xưa. Dịch giả Việt ngữ của bài thánh ca này là Mục sư Tiến sĩ Lê Vĩnh Thạch – Giáo Hạt Trưởng của Giáo Hạt Tin Lành Việt Nam tại Hoa Kỳ hiện nay.
Mục sư Lê Vĩnh Thạch đã dịch bài Thập Tự Xưa khi còn trẻ. Trong thời gian đầu, bài hát được phổ biến tại một số hội thánh, trong giới học sinh sinh viên Tin Lành tại Sài Gòn, và sinh viên thần học tại Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang. Sau đó, Thập Tự Xưa được xuất bản trong tuyển tập Ca Khúc Muôn Đời phát hành vào đầu thập niên 1970. Lời Việt của The Old Rugged Cross như sau.
Thập Tự Xưa
1. Thập Tự xưa sừng sững cao,
Dựng tận trên sườn núi xa,
Như tiêu biểu cho muôn sầu khổ sỉ nhục.
Lòng tôi yêu thập giá xưa,
Nơi Vua vinh diệu chí cao,
Thay nhân thế hư hoại chết cách đau thương.
2. Thập tự xưa hình xấu xa,
Toàn trần gian đều mỉa mai,
Nhưng thu hút tôi bằng tình yêu âm thầm.
Vì Chiên Con từ Chúa Cha,
Rời trời cao đầy hiển vinh,
Mang gian ác đau buồn ở Gô-gô-tha.
3. Thập tự xa lạ thuở xưa,
Chìm ngập trong giòng huyết thiêng,
Nhưng tôi thấy vẻ đẹp tuyệt đối cao trọng.
Vì tại trên thập giá xưa,
Jê-sus yên lặng khổ đau,
Ðem tha thứ nguyên lành đến cho chính tôi.
4. Từ nay trung thành mãi luôn,
Phục tại chân thập giá xưa,
Vui mang hết bao điều nhục nhã khinh bạc.
Ngày tương lai bừng sáng tươi,
Jêsus kêu gọi chính tôi,
Hân hoan sống trong nguồn ánh sáng vinh quang.
Điệp Khúc:
Lòng tôi say mê bóng dáng thập tự xưa.
Vui lòng đầu phục, tận hiến cả cuộc đời.
Lòng ôm ấp mối quyến luyến với thập tự.
Sẽ biến nên mão vinh diệu cho chính tôi.
(Trích Ca Khúc Muôn Đời)
Thánh ca Thập Tự Xưa nhanh chóng được các tín hữu Tin Lành Việt Nam đón nhận. Lời thánh ca súc tích, trang trọng, chứa đựng tình cảm sâu lắng. Từ ngữ dùng trong Thập Tự Xưa chọn lọc, âm vận hài hòa; văn mạch giản dị, tự nhiên, chuyển tải đầy đủ ý nghĩa, nội dung, tình cảm cùng quan điểm thần học trong nguyên tác. Thánh ca Thập Tự Xưa được đánh giá là một trong những bản dịch thánh ca hay nhất trong tiếng Việt từ trước cho tới nay.
Đã hơn 40 năm từ khi bài thánh ca Thập Tự Xưa được phát hành trong tiếng Việt. Như tại nhiều nơi trên thế giới, bài hát đã mang lại những ảnh hưởng tích cực trên cuộc sống của nhiều người. Nếu bạn chưa bao giờ nghe Thập Tự Xưa, mời bạn lắng nghe và cùng hát thánh ca này. Hy vọng, như hàng tỷ người trên thế giới trong suốt 100 năm qua, bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp cao trọng, tình cảm sâu đậm, và ân điển diệu kỳ mà Cứu Chúa dành cho bạn.
Châu Thanh
Bài viết cho
Thư Viện Tin Lành
Tháng 3/2013
Tựa đề: Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross
Nguyên tác: George Bernnard (1873-1958)
Lời Việt: Mục sư Lê Vĩnh Thạch
Thư Viện Tin Lành (2013)
www.thuvientinlanh.org
Xin chuyển tiếp nếu bạn thích.
Content retrieved from: https://www.thuvientinlanh.org/tstc_thaptuxua/.

Phim Nen Xem Mua Phuc Sinh
Risen (2016)
Vào mùa Phục Sinh năm 2016, Hollywood đã phát hành một phim mới lây đề tài từ Kinh Thánh. Tựa đề cuôn phim trong tiếng Anh là Risen, nhắc lại sự kiện Đức Chúa Jesus phục sinh và Hội Thánh của Chúa bắt đầu phát triển.
Chuyện phim xoay quanh nhân vật chính là Clavius, một sĩ quan La Mã dưới quyền của Thống Đốc Pontius Pilate. Bị áp lực của người Do Thái, Thống Đốc Pontius Pilate đã ra lệnh tử hình Đức Chúa Jesus. Clavius là viên sĩ quan đã chỉ huy đội hành quyết thi hành bản án này. Clavius chính là người đã ra lệnh đâm vào hông Đức Chúa Jesus khi Ngài còn bị treo trên thập tự để chắc chắn rằng Chúa đã chết. Clavius cũng chính là người đã niêm phong phần mộ của Chúa sau khi Ngài được chôn.
Điều đáng ngạc nhiên là ba ngày sau đó, Thống Đốc Pontius Pilate được báo cáo là Đức Chúa Jesus – được gọi trong tiếng Do Thái là Yeshua – đã sống lại. Pontius Pilate không tin điều này, tuy nhiên thi hài của Đức Chúa Jesus đã biến mất. Thống Đốc Pontius Pilate cho rằng đây là một trong những thủ đoạn chính trị của người Do Thái; do đó ông đã ra lệnh cho Clavius cùng với Lucius, nhân vật thứ hai dưới quyền của mình, thực hiện một cuộc điều tra để tìm cho được xác của Đức Chúa Jesus; nếu không dân Do Thái sẽ tung hô Yeshua làMessiah, nghĩa là Đấng Cứu Thế; như vậy tình hình sẽ càng rắc rối hơn.
Tuân lệnh Thống Đốc Pontius Pilate, Clavius tiến hành nhiều cuộc điều tra, lục soát, chất vấn nhiều người, nhưng không tìm được thi hài của Đức Chúa Jesus. Ngược lại, Clavius đã gặp Đức Chúa Jesus sống lại; và sau đó, Clavius đã nhận được biến cải tâm linh.
Tuân lệnh Thống Đốc Pontius Pilate, Clavius tiến hành nhiều cuộc điều tra, lục soát, chất vấn nhiều người, nhưng không tìm được thi hài của Đức Chúa Jesus. Ngược lại, Clavius đã gặp Đức Chúa Jesus sống lại; và sau đó, Clavius đã nhận được biến cải tâm linh.
Phim Risen được viết theo lối phim điều tra hình sự, được đặt trong góc nhìn của một người không tin Chúa. Phim Risen do Affirm Film, một chi nhánh của Sony Pictures thực hiện. Rút bài học thất bại từ những phim gần đây của như Noah và Exodus: Gods and Kings, các nhà làm phim Risen đã cố gắng giữ nội dung không đi xa khỏi những chi tiết đã được ký thuật trong Kinh Thánh,
Nhân vật chính trong phim là Clavius, do Joseph Fiennes, người đã đóng vai William Shakespeare trong phimShakespeare in Love, diễn. Thomas Andrew Felton, người đã đóng vai Draco Malfoy trong loạt phim Harry Potter, đóng vai Lucius. Peter Macintosh Firth, người từng đoạt giải Golden Globe về diễn viên phụ, đóng vai Pontius Pilate. Phim Risen do Kevin Hal Reynolds, đạo diễn phim Robin Hood: Prince of Thieves, viết kịch bản và làm đạo diễn.
Phim Risen được thực hiện với một ngân sách tương đối thấp, chỉ có 20 triệu đô-la. Phim được hãng Sony Pictures và Columbia Pictures phát hành vào ngày 19/2/2016. Sau hai tuần trình chiếu, phim thu được hơn 24 triệu đô-la. Phim được các nhà phê bình đánh giá là trên trung bình 5.8/10, nhưng được các khán giả trên CinemaScore cho điểm A- tới A+.
Đây là một phim nên xem trong mùa Phục Sinh.
Sưu tầm internet

Huấn Luyện Chấp Sự & Nhân Sự Vùng Tây Nam Hoa Kỳ 2022
Hình Ảnh nhà thờ tin lành Lời Chúa tham dự buổi huấn luyện chấp sự và nhân sự. Buổi Huấn Luyện được Mục Sư Huỳnh Văn Linh làm diễn giả. Nhà thờ Tin Lành Lời Chúa xin cảm ơn các ông bà anh chị em đã góp phần vào sự tổ chức của Buổi huấn luyện này!
Từ hận thù sang tha thứ – Em bé Napal
“EM BÉ NAPALM” KIM PHÚC
01/07/2016 1@1.ua Lời chứng sống, Lời chứng, chia sẻ niềm tin 0


Nó là một tấm ảnh mà không ai có thể quên được. Một cô bé, quần áo đã bị cháy rụi bởi bom Napalm, đang kêu la thất thanh và chạy khỏi ngôi làng đang bốc cháy. Hai cánh tay dang rộng trong nỗi khiếp sợ và đau đớn.
Đối với nhiều người, tấm hình này – đem lại giải thưởng Pulitzer Prize cho nhiếp ảnh gia Nick Ut – đã cô đọng lại thảm kịch của cuộc chiến tranh Việt Nam. Làng Trảng Bàng đã bị tàn phá vào ngày 8/7/1972 trong một cuộc không kích vào một căn cứ tình nghi. Nhiều người đã thiệt mạng còn cuộc đời của cô bé thì đã thay đổi mãi mãi.
Dù cho bị bỏng rất nặng, cô bé ấy vẫn sống sót. Nick Ut đã chở cô đến bệnh viện. Kim Phúc đã phải chịu đựng 14 tháng phục hồi trong đau đớn bởi vết bỏng độ III chiếm hơn một nửa cơ thể.
Khi lớn lên, Kim Phúc buộc phải từ bỏ trường y tế vì lý do luôn được nhắc đến như là một “biểu tượng của cuộc chiến tranh nhân dân”. Sau khi khiếu nại với người đứng đầu chính phủ Việt Nam, cô đã được phép rời quê hương để tiếp tục con đường học tập của mình. Kim Phúc gặp người chồng tương lai của mình tại Cuba, và sau đó họ quyết định trốn qua phương tây. Vào tuần trăng mật của họ năm 1992, hai vợ chồng đã xuống khỏi máy bay trong lúc chiếc phi cơ đang tiếp nhiên liệu tại Gander, Newfoundland, Canada rồi bỏ trốn.
Phan Thị Kim Phúc cùng với chồng trong một buổi nhóm tại Canada
Định cư trên một miền đất mới với một gia đình trẻ, câu chuyện của Kim Phúc lại tiếp tục tại đây. Trong lúc những bất đồng và tranh cãi xảy ra liên quan đến vụ đánh bom – ai là người ra lệnh, đã xảy ra ở đâu, mục tiêu là gì – thì một thực tế là Kim Phúc đã trở thành một nạn nhân vô tội của chiến tranh vẫn là điều không thể thay đổi. Giờ đây, cô dùng danh tiếng của mình để lên tiếng cho hòa bình. Tháng 11 năm 1997, Kim Phúc được mệnh danh là Đại sứ Thiện chí của UNESCO. Trước đó cũng năm 1997, cô cũng thành lập Tổ chức Kim Phúc tại Chicago, Hoa kỳ nhằm giúp đỡ các nạn nhân vô tội của chiến tranh.
Có lẽ sự bình an lan tỏa từ Kim Phúc chính là điều tuyệt vời nhất về cô. Cô không hề tức giận. Cô không hề cay nghiệt với chính phủ hay bất kỳ ai đã từng tham gia vào cuộc chiến. Trên thực tế, niềm đam mê lớn nhất của Kim Phúc là sự chữa lành. Năm 1996, cô đã đến Hoa kỳ để gặp Nick Út cũng như các bác sĩ đã phẫu thuật cho mình ở Sài Gòn. Vào ngày Cựu chiến binh năm đó, Kim Phúc đã phát biểu tại Đài Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam tại Washington DC. Thông điệp của cô bày tỏ niềm mong mỏi về sự chữa lành cũng như hòa giải đối với tất cả những ai đã từng tham gia vào cuộc chiến.
Kim Phúc chia sẻ về đời sống của mình đã được Chúa biến đổi
Tuy nhiên, sự bình an ấy không phải đến từ bản thân cô, cũng không phải tự nhiên mà có được. Trước khi chuyển đến Cuba, Kim Phúc đã đặt niềm tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Cô chia sẻ về hoàn cảnh trước đó của mình:
“Sự căm giận bên trong tôi chồng chất cao như núi. Tôi căm ghét cuộc sống. Tôi thù hận mọi người bình thường bởi vì tôi không bình thường. Nhiều lần tôi thực sự muốn chết. Tôi dành cả ngày trong thư viện tìm đọc nhiều sách tôn giáo để tìm kiếm mục đích của cuộc sống. Một trong những cuốn sách tôi đọc là Kinh Thánh. Giáng sinh năm 1982, tôi tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của tôi. Đó là sự biến chuyển diệu kỳ trong đời tôi. Chúa giúp tôi học biết tha thứ – bài học khó khăn nhất trong tất cả các bài học…. Vẫn còn những vết sẹo trên thân thể tôi, nhưng tấm lòng tôi đã được thanh tẩy.”
Đời sống Kim Phúc đã hoàn toàn được biến đổi từ khi tin nhận Chúa Giê-xu:
“Khi trở thành Cơ Đốc nhân, tôi có một sự kết nối tuyệt vời – mối quan hệ giữa tôi và Chúa Giê-xu và Đức Chúa Trời. Kể từ thời điểm đó, tôi học cách tha thứ”
Chúa đã cất đi sự thù hận trong con người Kim Phúc và thay vào đó là sự tha thứ và lòng biết vô hạn:
“Tôi thực sự cảm ơn Chúa vì Ngài đã cứu sống tôi khi tôi còn bé. Cho dù điều gì xảy ra với tôi, tôi đã có một cơ hội khác được sống, được khỏe mạnh, được đem niềm vui và sự giúp đỡ đến cho người khác”
Kết luận
Qua cuộc đời của Phan Thị Kim Phúc, chúng ta thấy được tình yêu thương cũng như quyền năng biến đổi của Đức Chúa Trời. Từ một cô gái chịu tổn thương và có thể sẽ suốt đời chìm ngập trong sự thù hận và đau đớn, Kim Phúc đã hoàn toàn tha thứ và sống một cuộc sống mới trong sự vui mừng. Không những thế, Kim Phúc còn giúp đỡ và trở thành nguồn khích lệ lớn lao cho biết bao người khác.
Bạn cũng muốn cuộc đời mình được Chúa biến đổi để trở nên vui tươi, bình an và có ý nghĩa? Đức Chúa Giê-xu phán rằng:
“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.” – Ma-thi-ơ 11:28-29
Chúa yêu thương bạn và muốn giúp đỡ bạn. Hãy đến với Chúa Giê-xu, và trao hết mọi gánh nặng, ưu phiền, thậm chí sự thù thận của bạn cho Ngài. Bạn sẽ tìm thấy sự bình an thật trong Ngài.
Power to Change Ministries – Tin Lành Trẻ dịch và bổ sung
Những con số trong Thánh kinh

Thánh Kinh đề cập một số không ít về những con số:
Hai trong những con số phổ biến thường được lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh là số 7 và số 40.
Số 7 chỉ về sự trọn vẹn hoặc là hoàn hảo (Sáng thế ký 7:2 – 4; Khải Huyền 1:20). Nó thường được gọi là “con số của Chúa” bởi vì chỉ có Ngài là Đấng hoàn hảo và trọn vẹn (Khải Huyền 4:5; 5:1, 5-6).
Số 3 cũng được hiểu là con số về sự trọn vẹn thiên thượng: Ba Ngôi Đức Chúa Trời gồm có Cha, Con, và Thánh Linh.
Số 40 thường được hiểu là “con số của việc tập sự hay thử thách.” Ví dụ, dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong đồng vắng suốt 40 năm (Phục truyền Luật lệ ký 8:2-5); Môi-se đã ở trên núi trong 40 năm (Xuất Ai-cập 24:18); Giô-na cảnh báo dân thành Ni-ni-ve rằng thành sẽ bị sụp đổ sau 40 ngày (Giô-na 3:4); Chúa Giê-xu chịu cám dỗ trong 40 ngày (Ma-thi-ơ 4:2); khoảng thời gian nằm giữa thời điểm Chúa Giê-xu sống lại và thăng thiên là 40 ngày (Công vụ các sứ đồ 1:3).
Một con số khác cũng được lặp lại trong Kinh Thánh là số 4, đây là con số của sự sáng tạo: bắc, nam, đông, tây; 4 mùa.
Số 6 cũng được cho là con số về loài người: con người được tạo dựng trong ngày thứ 6; con người chỉ làm việc trong 6 ngày. Một ví dụ khác trong Kinh Thánh sử dụng con số để ám chỉ về điều gì đó trong Khải Huyền 13, để chỉ về con số của kẻ chống đối Chúa là 666.
Dù những con số này có thật sự chứa đựng một ý nghĩa gì hay không thì điều đó vẫn còn ở trong vòng tranh cãi. Kinh Thánh rõ ràng chỉ sử dụng những con số này trong những khuôn mẫu hoặc để dạy về chân lý thuộc linh. Tuy nhiên, nhiều người lại chú ý quá nhiều vào vấn đề “Thánh Kinh số học”, cố gắng để tìm một ý nghĩa đặc biệt nào đó ẩn bên dưới mỗi con số trong Kinh Thánh. Thông thường, một con số trong Kinh Thánh cũng chỉ là một con số đúng nghĩa.
Chúa không kêu gọi chúng ta tìm hiểu những ý nghĩa bí ẩn, những thông điệp ẩn giấu, hay những mật mã trong Kinh Thánh. Luôn có nhiều chân lý đủ rõ ràng, dễ hiểu trong Kinh Thánh phù hợp những nhu cầu của chúng ta và nó làm cho chúng ta “trọn vẹn và được sẵm sẵn để làm mọi việc làm” (2 Ti-mô-thê 3:16).
(Sưu tầm internet)