Phim Nen Xem Mua Phuc Sinh

Phim Nen Xem Mua Phuc Sinh

Risen (2016)

Vào mùa Phục Sinh năm 2016, Hollywood đã phát hành một phim mới lây đề tài từ Kinh Thánh. Tựa đề cuôn phim trong tiếng Anh là Risen, nhắc lại sự kiện Đức Chúa Jesus phục sinh và Hội Thánh của Chúa bắt đầu phát triển.

Chuyện phim xoay quanh nhân vật chính là Clavius, một sĩ quan La Mã dưới quyền của Thống Đốc Pontius Pilate. Bị áp lực của người Do Thái, Thống Đốc Pontius Pilate đã ra lệnh tử hình Đức Chúa Jesus. Clavius là viên sĩ quan đã chỉ huy đội hành quyết thi hành bản án này. Clavius chính là người đã ra lệnh đâm vào hông Đức Chúa Jesus khi Ngài còn bị treo trên thập tự để chắc chắn rằng Chúa đã chết. Clavius cũng chính là người đã niêm phong phần mộ của Chúa sau khi Ngài được chôn.

Điều đáng ngạc nhiên là ba ngày sau đó, Thống Đốc Pontius Pilate được báo cáo là Đức Chúa Jesus – được gọi trong tiếng Do Thái là Yeshua – đã sống lại. Pontius Pilate không tin điều này, tuy nhiên thi hài của Đức Chúa Jesus đã biến mất. Thống Đốc Pontius Pilate cho rằng đây là một trong những thủ đoạn chính trị của người Do Thái; do đó ông đã ra lệnh cho Clavius cùng với Lucius, nhân vật thứ hai dưới quyền của mình, thực hiện một cuộc điều tra để tìm cho được xác của Đức Chúa Jesus; nếu không dân Do Thái sẽ tung hô Yeshua làMessiah, nghĩa là Đấng Cứu Thế; như vậy tình hình sẽ càng rắc rối hơn.

Tuân lệnh Thống Đốc Pontius Pilate, Clavius tiến hành nhiều cuộc điều tra, lục soát, chất vấn nhiều người, nhưng không tìm được thi hài của Đức Chúa Jesus. Ngược lại, Clavius đã gặp Đức Chúa Jesus sống lại; và sau đó, Clavius đã nhận được biến cải tâm linh.
Tuân lệnh Thống Đốc Pontius Pilate, Clavius tiến hành nhiều cuộc điều tra, lục soát, chất vấn nhiều người, nhưng không tìm được thi hài của Đức Chúa Jesus. Ngược lại, Clavius đã gặp Đức Chúa Jesus sống lại; và sau đó, Clavius đã nhận được biến cải tâm linh.

Phim Risen được viết theo lối phim điều tra hình sự, được đặt trong góc nhìn của một người không tin Chúa. Phim Risen do Affirm Film, một chi nhánh của Sony Pictures thực hiện. Rút bài học thất bại từ những phim gần đây của như Noah và Exodus: Gods and Kings, các nhà làm phim Risen đã cố gắng giữ nội dung không đi xa khỏi những chi tiết đã được ký thuật trong Kinh Thánh,

Nhân vật chính trong phim là Clavius, do Joseph Fiennes, người đã đóng vai William Shakespeare trong phimShakespeare in Love, diễn. Thomas Andrew Felton, người đã đóng vai Draco Malfoy trong loạt phim Harry Potter, đóng vai Lucius. Peter Macintosh Firth, người từng đoạt giải Golden Globe về diễn viên phụ, đóng vai Pontius Pilate. Phim Risen do Kevin Hal Reynolds, đạo diễn phim Robin Hood: Prince of Thieves, viết kịch bản và làm đạo diễn.

Phim Risen được thực hiện với một ngân sách tương đối thấp, chỉ có 20 triệu đô-la. Phim được hãng Sony Pictures và Columbia Pictures phát hành vào ngày 19/2/2016. Sau hai tuần trình chiếu, phim thu được hơn 24 triệu đô-la. Phim được các nhà phê bình đánh giá là trên trung bình 5.8/10, nhưng được các khán giả trên CinemaScore cho điểm A- tới A+.

Đây là một phim nên xem trong mùa Phục Sinh.

Sưu tầm internet 

Huấn Luyện Chấp Sự & Nhân Sự Vùng Tây Nam Hoa Kỳ 2022

Huấn Luyện Chấp Sự & Nhân Sự Vùng Tây Nam Hoa Kỳ 2022

Hình Ảnh nhà thờ tin lành Lời Chúa tham dự buổi huấn luyện chấp sự và nhân sự. Buổi Huấn Luyện được Mục Sư Huỳnh Văn Linh làm diễn giả. Nhà thờ Tin Lành Lời Chúa xin cảm ơn các ông bà anh chị em đã góp phần vào sự tổ chức của Buổi huấn luyện này!

Từ hận thù sang tha thứ – Em bé Napal

“EM BÉ NAPALM” KIM PHÚC

01/07/2016 1@1.ua Lời chứng sống, Lời chứng, chia sẻ niềm tin 0


“Em bé Napalm” Kim Phúc và cuộc đời được biến đổi bởi đức tin Cơ Đốc

Nó là một tấm ảnh mà không ai có thể quên được. Một cô bé, quần áo đã bị cháy rụi bởi bom Napalm, đang kêu la thất thanh và chạy khỏi ngôi làng đang bốc cháy. Hai cánh tay dang rộng trong nỗi khiếp sợ và đau đớn.

Đối với nhiều người, tấm hình này – đem lại giải thưởng Pulitzer Prize cho nhiếp ảnh gia Nick Ut – đã cô đọng lại thảm kịch của cuộc chiến tranh Việt Nam. Làng Trảng Bàng đã bị tàn phá vào ngày 8/7/1972 trong một cuộc không kích vào một căn cứ tình nghi. Nhiều người đã thiệt mạng còn cuộc đời của cô bé thì đã thay đổi mãi mãi.

Dù cho bị bỏng rất nặng, cô bé ấy vẫn sống sót. Nick Ut đã chở cô đến bệnh viện. Kim Phúc đã phải chịu đựng 14 tháng phục hồi trong đau đớn bởi vết bỏng độ III chiếm hơn một nửa cơ thể.

Khi lớn lên, Kim Phúc buộc phải từ bỏ trường y tế vì lý do luôn được nhắc đến như là một “biểu tượng của cuộc chiến tranh nhân dân”. Sau khi khiếu nại với người đứng đầu chính phủ Việt Nam, cô đã được phép rời quê hương để tiếp tục con đường học tập của mình. Kim Phúc gặp người chồng tương lai của mình tại Cuba, và sau đó họ quyết định trốn qua phương tây. Vào tuần trăng mật của họ năm 1992, hai vợ chồng đã xuống khỏi máy bay trong lúc chiếc phi cơ đang tiếp nhiên liệu tại Gander, Newfoundland, Canada rồi bỏ trốn.

Phan Thị Kim Phúc cùng với chồng tại một Hội Thánh tại Canada

Phan Thị Kim Phúc cùng với chồng trong một buổi nhóm tại Canada

Định cư trên một miền đất mới với một gia đình trẻ, câu chuyện của Kim Phúc lại tiếp tục tại đây. Trong lúc những bất đồng và tranh cãi xảy ra liên quan đến vụ đánh bom – ai là người ra lệnh, đã xảy ra ở đâu, mục tiêu là gì – thì một thực tế là Kim Phúc đã trở thành một nạn nhân vô tội của chiến tranh vẫn là điều không thể thay đổi. Giờ đây, cô dùng danh tiếng của mình để lên tiếng cho hòa bình. Tháng 11 năm 1997, Kim Phúc được mệnh danh là Đại sứ Thiện chí của UNESCO. Trước đó cũng năm 1997, cô cũng thành lập Tổ chức Kim Phúc tại Chicago, Hoa kỳ nhằm giúp đỡ các nạn nhân vô tội của chiến tranh.

Có lẽ sự bình an lan tỏa từ Kim Phúc chính là điều tuyệt vời nhất về cô. Cô không hề tức giận. Cô không hề cay nghiệt với chính phủ hay bất kỳ ai đã từng tham gia vào cuộc chiến. Trên thực tế, niềm đam mê lớn nhất của Kim Phúc là sự chữa lành. Năm 1996, cô đã đến Hoa kỳ để gặp Nick Út cũng như các bác sĩ đã phẫu thuật cho mình ở Sài Gòn. Vào ngày Cựu chiến binh năm đó, Kim Phúc đã phát biểu tại Đài Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam tại Washington DC. Thông điệp của cô bày tỏ niềm mong mỏi về sự chữa lành cũng như hòa giải đối với tất cả những ai đã từng tham gia vào cuộc chiến.

Kim Phúc chia sẻ về đời sống của mình đã được Chúa biến đổi

Kim Phúc chia sẻ về đời sống của mình đã được Chúa biến đổi

Tuy nhiên, sự bình an ấy không phải đến từ bản thân cô, cũng không phải tự nhiên mà có được. Trước khi chuyển đến Cuba, Kim Phúc đã đặt niềm tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Cô chia sẻ về hoàn cảnh trước đó của mình:
“Sự căm giận bên trong tôi chồng chất cao như núi. Tôi căm ghét cuộc sống. Tôi thù hận mọi người bình thường bởi vì tôi không bình thường. Nhiều lần tôi thực sự muốn chết. Tôi dành cả ngày trong thư viện tìm đọc nhiều sách tôn giáo để tìm kiếm mục đích của cuộc sống. Một trong những cuốn sách tôi đọc là Kinh Thánh. Giáng sinh năm 1982, tôi tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của tôi. Đó là sự biến chuyển diệu kỳ trong đời tôi. Chúa giúp tôi học biết tha thứ – bài học khó khăn nhất trong tất cả các bài học…. Vẫn còn những vết sẹo trên thân thể tôi, nhưng tấm lòng tôi đã được thanh tẩy.”
Đời sống Kim Phúc đã hoàn toàn được biến đổi từ khi tin nhận Chúa Giê-xu:
“Khi trở thành Cơ Đốc nhân, tôi có một sự kết nối tuyệt vời – mối quan hệ giữa tôi và Chúa Giê-xu và Đức Chúa Trời. Kể từ thời điểm đó, tôi học cách tha thứ”
Chúa đã cất đi sự thù hận trong con người Kim Phúc và thay vào đó là sự tha thứ và lòng biết vô hạn:
“Tôi thực sự cảm ơn Chúa vì Ngài đã cứu sống tôi khi tôi còn bé. Cho dù điều gì xảy ra với tôi, tôi đã có một cơ hội khác được sống, được khỏe mạnh, được đem niềm vui và sự giúp đỡ đến cho người khác”

Kết luận

Qua cuộc đời của Phan Thị Kim Phúc, chúng ta thấy được tình yêu thương cũng như quyền năng biến đổi của Đức Chúa Trời. Từ một cô gái chịu tổn thương và có thể sẽ suốt đời chìm ngập trong sự thù hận và đau đớn, Kim Phúc đã hoàn toàn tha thứ và sống một cuộc sống mới trong sự vui mừng. Không những thế, Kim Phúc còn giúp đỡ và trở thành nguồn khích lệ lớn lao cho biết bao người khác.

Bạn cũng muốn cuộc đời mình được Chúa biến đổi để trở nên vui tươi, bình an và có ý nghĩa? Đức Chúa Giê-xu phán rằng:
“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.” – Ma-thi-ơ 11:28-29
Chúa yêu thương bạn và muốn giúp đỡ bạn. Hãy đến với Chúa Giê-xu, và trao hết mọi gánh nặng, ưu phiền, thậm chí sự thù thận của bạn cho Ngài. Bạn sẽ tìm thấy sự bình an thật trong Ngài.

Power to Change Ministries – Tin Lành Trẻ dịch và bổ sung

(Sưu tầm internet)

Những con số trong Thánh kinh

Thánh Kinh đề cập một số không ít về những con số:

Hai trong những con số phổ biến thường được lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh là số 7 và số 40.

Số 7 chỉ về sự trọn vẹn hoặc là hoàn hảo (Sáng thế ký 7:2 – 4; Khải Huyền 1:20). Nó thường được gọi là “con số của Chúa” bởi vì chỉ có Ngài là Đấng hoàn hảo và trọn vẹn (Khải Huyền 4:5; 5:1, 5-6).

Số 3 cũng được hiểu là con số về sự trọn vẹn thiên thượng: Ba Ngôi Đức Chúa Trời gồm có Cha, Con, và Thánh Linh.

Số 40 thường được hiểu là “con số của việc tập sự hay thử thách.” Ví dụ, dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong đồng vắng suốt 40 năm (Phục truyền Luật lệ ký 8:2-5); Môi-se đã ở trên núi trong 40 năm (Xuất Ai-cập 24:18); Giô-na cảnh báo dân thành Ni-ni-ve rằng thành sẽ bị sụp đổ sau 40 ngày (Giô-na 3:4); Chúa Giê-xu chịu cám dỗ trong 40 ngày (Ma-thi-ơ 4:2); khoảng thời gian nằm giữa thời điểm Chúa Giê-xu sống lại và thăng thiên là 40 ngày (Công vụ các sứ đồ 1:3).

Một con số khác cũng được lặp lại trong Kinh Thánh là số 4, đây là con số của sự sáng tạo: bắc, nam, đông, tây; 4 mùa.

Số 6 cũng được cho là con số về loài người: con người được tạo dựng trong ngày thứ 6; con người chỉ làm việc trong 6 ngày. Một ví dụ khác trong Kinh Thánh sử dụng con số để ám chỉ về điều gì đó trong Khải Huyền 13, để chỉ về con số của kẻ chống đối Chúa là 666.

Dù những con số này có thật sự chứa đựng một ý nghĩa gì hay không thì điều đó vẫn còn ở trong vòng tranh cãi. Kinh Thánh rõ ràng chỉ sử dụng những con số này trong những khuôn mẫu hoặc để dạy về chân lý thuộc linh. Tuy nhiên, nhiều người lại chú ý quá nhiều vào vấn đề “Thánh Kinh số học”, cố gắng để tìm một ý nghĩa đặc biệt nào đó ẩn bên dưới mỗi con số trong Kinh Thánh. Thông thường, một con số trong Kinh Thánh cũng chỉ là một con số đúng nghĩa.

Chúa không kêu gọi chúng ta tìm hiểu những ý nghĩa bí ẩn, những thông điệp ẩn giấu, hay những mật mã trong Kinh Thánh. Luôn có nhiều chân lý đủ rõ ràng, dễ hiểu trong Kinh Thánh phù hợp những nhu cầu của chúng ta và nó làm cho chúng ta “trọn vẹn và được sẵm sẵn để làm mọi việc làm” (2 Ti-mô-thê 3:16).

(Sưu tầm internet)

Cuộc đời biến đổi của cựu trung tướng Nguyễn Hữu Có

Nguyễn Hữu Có (1925–2012) là một cựu Trung tướng Việt Nam Cộng hòa và cũng là một chính khách, từng giữ chức Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa(1965–1967)[1]. Ông từng là nhân vật số 3 trong chính quyền Sài Gòn sau tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ.

Thân Thế và Sự Nghiệp

Từ thuở nhỏ cho đến lúc trưởng thành, tôi không theo một tôn giáo nào cả. Gia đình tôi chỉ thờ cúng ông bà.Năm 1958, tôi đã được 15 năm trong binh nghiệp. Với cấp bậc Đại tá tôi giữ chức vụ Tư Lệnh Quân khu I, gồm 9 tỉnh miền Đông Nam bộ. Lúc đó các thầy tướng số và các nhà sư khuyên tôi nên lập trang thờ các vị thần hộ mệnh. Tôi tin vào lời khuyên và bắt đầu thờ Ông (Quan Công – Lưu Bị – Trương Phi ), Đức Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm. Mặc dù thờ Phật, nhưng tôi không hề đi chùa, không đọc kinh Phật, nên chẳng hiểu biết giáo lý Phật giáo. Sự thờ phượng của tôi chỉ với mục đích bảo hộ bản thân. Vì bận công việc hằng ngày, tôi không có thời giờ tìm hiểu các vấn đề cơ bản trong Phật giáo, nhất là sự ăn năn, sự tha tội, và sự cứu rỗi linh hồn.
Cuối năm 1963, tôi được vinh thăng Thiếu tướng vì có công trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Cuộc đời binh nghiệp của tôi từ đây có những bước tiến vọt đáng kể:

· 1964-1965: Làm Tư Lệnh Quân đoàn IV, rồi làm Tư Lệnh Quân đoàn III.

· 1965-1966 : Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng Hoà – Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng.

Địa vị tôi càng cao càng vững vàng tôi càng tin nơi các đấng hộ mệnh. Tôi biệt riêng ra một phòng ở tư thất, dành cho việc thờ cúng. Tôi cũng thờ thêm nhiều vị Phật khác như: Phật Di Lặc, Phật Bà Chúa Xứ, Phật Đầu Xà ( Thái Lan ), các Thần Tài, Thổ Địa, v.v. Tôi chi tiền rộng rãi mua sắm hương đèn, hoa quả, còn việc thờ cúng thì giao cho quản gia và người chị vợ trách nhiệm mỗi đêm thắp hương, niệm Phật. Các vị thượng khách khi đến Việt Nam, biết tôi mộ đạo (dù chỉ bằng hình thức), đã tặng tôi nhiều tượng Phật quí thỉnh từ các Chùa ở Lào, Thái Lan và Miên. Tôi cũng đeo trong người hàng chục tượng Phật nhỏ bằng vàng, ngà voi , đá quí do nhiều người gởi tặng, để lúc nào tôi cũng được che chở hộ mạng. Gia đình tôi quan niệm rằng nếu muốn cho linh hồn mình được cứu rỗi trong đời sau thì đời nầy phải lo đạo đức, làm lành lánh dữ, dâng hiến cho các chùa và làm công tác từ thiện.

Đời binh nghiệp và chính trị của tôi lên đến tột đỉnh từ giữa năm 1965 đến đầu năm 1967. Với địa vị đứng hàng thứ ba sau hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, tôi chẳng những có thanh thế trong nước, mà còn có tiếng tăm ở nước ngoài. Tôi đã đi thăm và hoạt động ngoại giao ở nhiều nước trên thế giới. Ở Châu Á tôi đã đi thăm Thái Lan, Đài Loan, Phi Luật Tân và Đại Hàn. Ở Châu Âu, tôi đã đến các nước Anh, Đức và Ý. Đặc biệt tôi đã được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến tại Toà Thánh Vatican. Ở Châu Phi, tôi đã thăm và gặp gỡ các vị Tổng Thống Bourguiba của Tunisie, Tổng Thống Houphouet của Côte d Ivoire. Ở Hoa Kỳ, tôi đã được mời thăm 1 số lớn căn cứ quân sự Mỹ tại Hawai và trên đất liền.

Những Bước Thăng Trầm

Thử thách thứ nhất
Cuộc đời không có gì bền vững cả! Địa vị, danh vọng, tiền bạc, hạnh phúc, v.v. chúng đến khi gặp thời và ra đi khi vận hết. Năm 1967, với địa vị Phó Thủ Tướng chính phủ, kiêm Tổng Trưởng Quốc phòng, tôi được hai tướng Thiệu, Kỳ yêu cầu tôi đi Đài Loan với tư cách đại diện Quân đội và Chính phủ Việt Nam để cảm ơn Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan về những sự giúp đỡ quân sự, ngoại giao, và sự chân tình ủng hộ công cuộc chống cộng của Miền Nam Việt Nam.

Trong chuyến công du bảy ngày nầy tôi còn được giao phó:

– Khai trương đường bay Air Việt Nam Sài Gòn – Tapei.

– Thăm trường Đại học Quân sự và trường Võ bị.

– Nghiên cứu tổ chức, hoạt động Hội Cựu chiến binh Đài Loan.

Tôi được đón tiếp như một thượng khách với các nghi lễ đầy đủ. Báo chí Đài Loan cũng đề cao ca tụng tôi. Cuộc công du đang diễn ra tốt đẹp thì đến ngày thứ ba, bất trắc đã xảy ra cho tôi. Đại sứ Việt Nam tại Đài Loan là tướng Trần Thượng Khiêm và Đại sứ Trung Hoa Quốc Gia tại Việt Nam là Hồ Liên xin đến gặp tôi tại khách sạn ban đêm để trao cho tôi bản tin nhận được từ Sài Gòn. Tôi bị Hội Đồng Quân Lực xét xử và cách chức Phó Thủ Tướng và Tổng Trưởng Quốc Phòng, đồng thời bị giải ngũ khỏi quân đội. Tôi hơi bàng hoàng vì trước ngày tôi lên đường, mọi việc có vẻ bình thường. Tôi lấy lại bình tĩnh và nhận định đây là một âm mưu gạt tôi ra nước ngoài để loại tôi ra khỏi chính quyền. Hôm sau tướng Nguyễn Văn Thiệu gửi điện văn qua yêu cầu tôi sau khi chấm dứt công tác ở Đài Loan, tiếp tục dẫn phái đoàn đi thăm Đại Hàn. Tôi liên lạc điện thoại về Sài Gòn nói chuyện trực tiếp với Tướng Thiệu. Tôi trình bày rằng tôi không thể đi Đại Hàn được vì các anh đã “cách chức tôi “, hơn nữa cuộc công du nầy chưa chuẩn bị. Thiệu cố ý ép tôi đi Đại Hàn với dụng ý đưa tôi đi xa để khỏi trở về nước. Nhưng tôi xin được đến Hong Kong tị nạn chính trị. Cuối cùng Thiệu ưng thuận.

Ngày 20 tháng giêng năm 1967, tôi rời Đài Bắc với lễ nghi tiễn đưa bình thường. Tôi rất cảm kích về sự chân tình của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan đã thông cảm hoàn cảnh tôi. Về đến khách sạn Fortuna ở đường Nathan thì có thiếu tướng Linh Quang Viên điện thoại đến xin gặp. Anh Viên được Thiệu cử sang Hong Kong gấp để trao cho tôi bức thư Thiệu viết tay với nội dung ngắn gọn đầy sự hăm dọa. Thiệu khuyên tôi tạm ở nước ngoài, để anh em bên nhà sắp xếp công việc. Nếu tôi tìm cách trở về thì Thiệu không bảo đảm sinh mạng. Anh Viên là người ôn hoà được tôi yêu mến. Anh đang giữ chức vụ Bộ trưởng bộ An Ninh. Tôi vui vẻ bảo với anh Viên về trình với Thiệu, tôi sẽ không làm gì gây khó khăn cho anh em bên nhà, miễn các anh em xử đẹp với tôi thôi.

Tôi mau chóng ổn định cuộc sống ở Hong Kong. Tôi thuê được một căn hộ nhỏ để tôi và hai sĩ quan tùy viên trung tín ở chung. Đó là đại uý Đoàn Văn Sanh và Nguyễn Văn Hưỡn (về sau tôi cho Sanh về nước, còn Hưỡn ở với tôi một năm). Tôi dần dần có nhiều bạn bè ở Hong Kong. Một số bạn bè do tòa Tổng lãnh sự Đài Loan giới thiệu (tổ chức chìm không có văn phòng). Họ là những người giàu có trong Tổ chức Quốc Dân Đảng ở Hong Kong. Những người nầy tìm cách an ủi tôi bằng những cuộc chiêu đãi vui chơi, ăn uống, du ngoạn. Có một số khác là người Việt Nam sinh sống lập nghiệp ở Hong Kong, trong số nầy đáng kể nhất là cụ Lưu Đức Trung, 67 tuổi, trước làm cố vấn cho vua Bảo Đại, lúc cựu Hoàng Đế nầy sống lưu vong ở Hong Kong (1946-1949).

Một người nữa là Hồng Hữu Ba (40 tuổi) quê ở Bạc Liêu, có vợ người Hoa làm ở bệnh viện Hong Kong, còn ông làm Chấp sự Hội Thánh Tin Lành Hong Kong. Ông Ba thường đến nhà tôi để chia sẻ về Đức Chúa Trời, về Đấng Cưứ Thế Jesus. Ông ba tặng tôi quyển Kinh Thánh Tân Ước và khuyên tôi nên đọc và suy gẫm lời Chúa. Tôi ghi nhận lòng tốt và sự sốt sắng của ông Ba, nhưng thú thật lúc đó cửa tâm hồn còn đóng kín, ánh sáng chân lý chưa lọt được vào trong. Tôi chẳng chú tâm tìm hiểu và cũng lười đọc Kinh Thánh.

Tôi tạm yên vui với cảnh sống Hong Kong. Vợ con tôi mỗi năm sang thăm và ở lại với tôi vài lần. Gia đình tôi bên nhà cũng yên ổn sau vài tuần gặp khó khăn ban đầu. Với thời gian thì việc gì cũng qua. Việc của tôi bị lãng quên khỏa lấp với những sự việc mới.

Sau khi đắc cử Tổng Thống, Thiệu triệu hồi tôi về nước, Tướng Trần Thiện Khiêm đại sứ ở Đài Loan, Tướng Đổ Cao Trí đại sứ ở Đại Hàn. Giữa năm 1969 Thiệu cũng nhờ Tướng Trần Văn Đôn (Nghị Sĩ) sau khi đi công tác ở Đài Loan ghé Hong Kong. Ngài cho tôi biết Thiệu đã đồng ý cho tôi về nước. Nhưng mãi đến 29-01-1970 Thiệu mới gởi điện cho tôi trở về.

Ba năm ở Hong Kong đã làm cho tôi đủ thời gian suy gẫm định hướng tương lại cuộc đời. Tôi quyết định sau khi trở về nước sẽ xoá hết mọi thù hiềm, quên đi chuyện cũ. Tôi dứt khoát không tham gia chính trị và chỉ lo làm ăn nuôi sống gia đình.

Thử thách thứ hai
Trong năm 1970 tôi lập một trại nuôi gà ở xã Phước Long, Thủ Đức, thu nhập tạm đủ cho gia đình chi dùng. Cuối năm 1970, do giao dịch với Tín Nghĩa ngân hàng, tôi gặp lại anh Nguyễn Tấn Đời và nối lại tình bạn cũ ngày trước. Anh Đời mời tôi hợp tác với Tín Nghĩa ngân hàng. Tôi chấp nhận ngay, vì việc chăn nuôi cũng bấp bênh, không có tương lai. Sau khi học việc một thời gian, anh Đời cho tôi làm phó tổng giám đốc các chi nhánh. Với chức vụ nầy tôi thường đi thanh tra các chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh, từ 9 lúc ban đầu phát triển đến 22 chi nhánh, lúc Tín Nghĩa Ngân hàng bị rút giấy phép. Tháng 4 năm 1973, Tín Nghĩa ngân hàng bị rút giấy phép hoạt động vì Đoàn Thanh tra ngân hàng đã thấy nhiều hồ sơ cho vay bất hợp lệ. Anh Đời và các nhân viên chủ chốt bị bắt giam ở Chí Hoà và bị truy tố ra toà. Tôi cũng bị truy tố ra tòa, nhưng được tại ngoại, có lẽ vì tôi không dính líu đến việc làm ăn và cho vay ở trụ sở Trung Ương. Thế là tôi bị mất việc, phải xoay ra nghề khác sinh sống. Tôi mở một tiệm buôn xe đạp ở Sài Gòn, và lập một cơ sở chế biến khô mực xuất khẩu ở Vũng Tàu.

Thử thách thứ ba
Năm 1975, sau khi Phước Long rồi Ban Mê Thuộc bị thất thủ. Tôi bắt đầu lo lắng cho số phận miền Nam Việt Nam. Khi Chính Phủ quyết định rút bỏ Kontum, Pleiku, tình hình quân sự suy sụp mau chóng. Trọn tháng 4, tôi đã bỏ hết công việc làm ăn để tìm phương tiện đưa gia đình ra nước ngoài. Nhưng số phận tôi đã an bài. Tất cả những lo liệu của tôi đều thất bại. Gia đình chúng tôi bị kẹt sau ngày miền Nam hoàn toàn thất thủ. Tôi không trách bạn bè sao không giúp đở vì trước cảnh dầu sôi lữa bỏng, ai cũng lo cho bản thân mình trước đã. Là kẻ chiến bại còn ở lại, tôi phải chấp nhận mọi tình huống nguy hiểm xảy ra. Trước hết là mất tài sản, tôi được lệnh lên Đà Lạt và ra Vũng Tàu giao nhà cho Uỷ Ban quân quản. Cơ quan nầy từ chối không chấp cho tôi biên lai nhận nhà. Đây là một sự tước đoạt cứ không phải là chuyển giao. Nhà tôi đang ở 181-Cách Mạng cũng giao cho ông chủ mới. Lúc đó mạng sống của tôi còn không bảo đãm được nữa là nói chi đến tài sản. Cuối cùng là lệnh gọi đi trình diện cải tạo. Từ đây những ngày dài vô tận và vô cùng đen tối đã bao trùm lên tôi và gia đình tôi.

Tôi nhìn biết Đức Chúa Trời

Mùa hè 1977, tôi và ban tướng lãnh (31 người) đang ở trại 5 Yên Bái. Chúng tôi từ trại Quang Trung đã được chuyển ra đây bằng phi cơ từ mùa hè trước (1976). Ở đây chúng tôi phải lao động nặng nhọc. Mỗi tuần trừ những người đau yếu, chúng tôi phải lên núi đốn củi đem về đun. Hôm ấy trời nóng bức oi ả. Sau khi đốn xong 1 vác củi đúng chỉ tiêu (khoảng 25 Kg), tôi ngồi nghỉ mệt trên đồi dưới bóng mát, chờ anh em đốn xong để được lính canh đưa về trại một lượt. Tôi nhìn xem cảnh vật chung quanh. Trên cành cây có chim đang nhảy nhót. Từng đàn bướm lượn quanh khoe cánh với đủ màu sắc sặc sỡ. Trên trời từng đàn mây trắng bay với nền trời xanh trong trẻo. Các chú chuồn chuồn bay chập chờn như những chiếc trực thăng cực nhỏ. Bất giác tôi tự hỏi ai tạo ra vạn vật trong thiên nhiên. Chẳng lẽ mọi vật tự nó có và vũ trụ đặt ra qui luật phát triển và tồn tại ư? Từ suy nghĩ đó, tôi nhìn lên trời cao và nghỉ đến một Đấng mà thế gian gọi là Ông Trời hay là Thượng Đế. Tôi nghĩ phải có đấng tạo hoá dựng nên thế gian và mọi loài vạn vật. Với ý nghĩ đó tôi so sánh ông Trời với ông Phật. Người ta thường nói Trời mưa, Trời nắng, Trời gió, Trời lạnh, v.v. Còn ông Phật thì không được gọi như thế. Sau chuyến đi lấy củi hôm ấy, tôi có một nhận thức mới. Đó là điểm khởi đầu nhìn biết Đức Chúa Trời. Từ đấy tôi nhìn và lối suy nghĩ khác hẳn trước. Đối với hoạn nạn tôi đã trải qua tôi không qui cho số phận may rủi nữa. Tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên tôi ắt có quyền trên đời sống tôi. Mọi việc xảy ra trong đời tôi đều do ơn Ngài quyết định.

Chúa làm phép lạ trong gia đình tôi

Ngài cứu con trai tôi
Gia đình tôi có 12 người con, 4 trai, 8 gái. Chúng tôi rất khổ tâm khi có đứa con trai hư đốn nghiện ngập xì ke. Đó là đứa con trai thứ nhì Nguyễn Hữu Trung, sinh năm 1955. Trung đã nghiện ngập xì ke trước ngày mất miền Nam. Sau năm 1975, gia đình túng thiếu, cuộc sống chật vật, nhưng Trung vẫn tìm mọi cách moi tiền đi hút. Gia đình có gởi Trung vào Trường Phục Hồi nhân phẩm cải tạo xì ke, ma tuý, và gái điếm) ở Bình Triệu. Được một thời gian, trường cho về nhà nhưng Trung vẫn không bỏ được xì ke. Đến tháng 08-1979, Trung bị nghiện nặng bỏ nhà ra đi một thời gian. Vì thiếu tiền, thiếu thuốc, Trung bị cơn nghiền dày vò hành hạ nên trở về nhà. Hai hôm sau Trung lên cơn sốt nặng, người gầy yếu chỉ còn da bọc xương (Trung cao 1m72 chỉ còn có 28Kg). Gia đình chở Trung lên bệnh biện Nguyễn Văn Học (Gia Định) lúc chiều. Các bác sĩ khám cho Trung, lúc ấy Trung đã hôn mê nằm như người gần chết. Bác sĩ thử tủy cột sống, Trung không còn tủy nữa . Các bác sĩ cho biết Trung không thể nào sống được tới 12 giờ đêm, và khuyên gia đình nên chuẩn bị mai táng. Hôm đó nhằm ngày thứ bảy. Gia đình tôi đã có vài đứa con tin Chúa (2 con gái Nguyễn thị Ngọc Thu, Nguyễn thị Thanh Loan , và Nguyễn thị Minh Trang là vợ Trung).

Tối hôm ấy, chúng nó đi nhóm nhà thờ Tin Lành Trần Cao Vân và xin Mục Sư Hồ Hiếu Hạ dâng lời cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh cho Trung. Cả Hội Thánh cầu nguyện. Tan buổi nhóm, Mục sư Hạ và một số thanh niên đến nhà chúng tôi cầu nguyện cho Trung đến 11 giờ đêm. Nhưng vợ tôi vẫn chuẩn bị mọi việc để mai táng Trung. Ngày hôm sau, trời vừa mờ sáng, Ngọc Thu đã đến bệnh viện. Vì có lời dặn của bác sĩ hôm trước, nên Thu đi thẳng xuống nhà xác, không có xác Trung ở đây. Thu hơi mừng, đi gấp lên phòng bệnh chổ Trung nằm, vừa đi vừa cầu nguyện Chúa. Đến nơi Thu rất đổi ngạc nhiên thấy Trung đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Các bác sĩ cũng ngạc nhiên nói chỉ có phép lạ Trung mới sống được như thế. Sau một tuần nằm điều trị ở bệnh viện, Trung hầu như hồi phục và được xuất viện.

Chúa chữa bệnh phổi cho Trung
Về nhà được ít lâu, Trung bị bệnh lại, đó là bệnh phổi tái phát, vì năm 1973 lúc Trung còn học tại trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, có lần đã nằm viện giải phẩu lấy mủ ở phổi. Ngọc Thu đưa Trung vào bệnh viện Hồng Bàng trong Chợ Lớn trị lao. Nơi đây sau khi chụp hình phổi, thử máu, thử đàm bác sĩ cho biết Trung đã bị lủng phổi rất nặng, phải chịu nằm viện và cách ly với vợ con. Tạm thời Trung phải trở về nhà đợi một tuần vì bệnh viện chưa có chổ nằm. Cả gia đình cầu nguyện Chúa thương xót chữa lành cho Trung một lần nữa. Tuần sau, Trung trở lại bệnh viện để làm thủ tục nhập viện. Bác sĩ cho chụp hình trở lại. Rất kỳ lạ là hai lá phổi đều tốt hoàn toàn. Các kết quả khác đều cho kết quả tốt. Các bác sĩ đều ngạc nhiên về trường hợp nầy. Một lần nữa Đức Chúa trời đã chữa lành cho Trung, để qua đó cả gia đình đều đến với Ngài. Halêlugia, cảm tạ Chúa!

Ghi chú : sau sự việc nầy vợ Trung là Minh Trang được người cô ở Pháp giúp đở mua nhà ở riêng và làm ăn phát đạt. Hiện vợ chồng Trung có đứa con gái xinh đẹp và rất hạnh phúc. Nguyền xin Chúa ban ơn gìn giử gia đình Trung để chúng nó đứng vững trong đức tin mà theo Ngài.

Chúa chữa lành bệnh khó cho vợ tôi
Đầu năm 1983, vợ tôi bị bệnh tiểu đường, nước tiểu trắng đục như vôi. Nhà tôi nhờ bác sĩ Nguyễn Sào Trung chữa trị. Bệnh không thuyên giảm. Bác sĩ Trung đề nghị vợ tôi đi xét nghiệm và hội chẩn của các bác sĩ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy cho biết vợ tôi bị một chứng bệnh kỳ lạ, hàng triệu người bệnh mới có trường hợp như vậy. Có một loại giun chỉ ở trong thận, dùng thuốc không thể trục chúng ra được, mà giải phẩu mới mong cứu sống vợ tôi. Nhưng giải phẫu cũng không chắc thành công vì bệnh viện thiếu phương tiện. Hơn nữa, vợ tôi sức khoẻ sa sút khó có thể chịu nổi cuộc giải phẩu kéo dài những 7 tiếng đồng hồ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy đề nghị vợ tôi xin đi nước ngoài để chữa trị mới có hy vọng được cứu sống. Đề nghị nầy thực khó thực hiện vì gia đình không có tiền, ngoài ra thủ tục xin xuất ngoại chữa bệnh cũng khó khăn. Trong cảnh tuyệt vọng, gia đình tôi chỉ còn có một con đường là mọi người hết lòng cầu nguyện, nài xin Chúa thương xót vợ tôi. Lúc nầy Hội Thánh Trần Cao Vân đã bị nhà nước tịch thu và ngưng hoạt động, còn Mục sư Hồ Hiếu Hạ và các tôi tớ Chúa ở đây đã bị bắt giữ. Gia đình chuyển qua sinh hoạt tại một nhà thờ Tin Lành cách nhà chúng tôi vài trăm thước. Mục sư Lê Quốc Chánh, Chủ tọa Hội Thánh, đặt tay lên người vợ tôi cầu nguyện xin Chúa chữa lành cho. Vợ tôi kiêng ăn cầu nguyện. Cả gia đình cũng hết lòng cầu nguyện. Vài ngày sau, vợ tôi đi ngoài và phát hiện một con giun đủa lớn kéo theo một chùm giun nhỏ cứ theo ra ngoài. Vợ tôi lấy cả đám giun đem đến bệnh viện Bình Dân xét nghiệm. Thạc sĩ Ngô Gia Hy xác nhận đây chính là giun chỉ ở thận của vợ tôi. Ông rất ngạc nhiên không hiểu tại sao giun lại theo đường tiêu hoá ra ngoài. Chúa cho phép bệnh tật xảy ra, thì cũng có cách chữa lành bệnh. Không việc gì Chúa không làm được vì Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Tri. Halelugia, cảm tạ Chúa.

Chúa mở đường cho tôi đến với Ngài
Đầu năm 1979 do tình hình chiến sự bộc phát ở biên giới Tây Bắc Việt Nam do Trung Quốc gây ra nên các trại cải tạo ở gần biên giới phía Bắc được di tản đưa về nhập với các trại phía Nam xa biên giới. Tập thể tướng lãnh chúng tôi đang ở trại Hà Tây (cách Hà Nội 25Km về phía Tây) cũng được phát tán qua các trại khác. Tôi và các tướng Lê Minh Đạo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Phía Tây Phủ Lý 30Km). Đến giữa tháng 04 năm 1979, thình lình tôi được lệnh tha cùng một lúc với bảy anh em khác ở trại. Anh em bàn tán xôn xao cho rằng tôi được lệnh tha là do nhu cầu chính trị, để tuyên truyền cho chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ. Rồi sau đó tôi được đưa về trại Hà Tây. Nơi đây cũng có có anh em khác từ các trại cải tạo ở Thanh Hoá đưa về. Tất cả chúng tôi là 13 người, được hưởng chế độ ăn uống bồi dưỡng và được đi tham quan Hà Nội, có vẻ như sắp được cho về với gia đình. Thủ tục nầy được áp dụng từ trước đến nay như một thông lệ. Sau hơn một tuần lễ sống trong tâm trạng hồ hởi, phấn khởi, chúng tôi được lệnh tập trung lên phòng họp của trại để nghe cấp trên nói chuyện. Chúng tôi mừng hụt vì không phải được thả về mà để nghe động viên giải tinh thần buộc đi vào Thanh Hoá nghiên cứu thành lập một nông trường cho Bộ Nội Vụ (Cục cải tạo). Trước vẻ mặt tiu nghỉu của chúng tôi, trại hứa hẹn chỉ đi vài tháng thôi “rồi cho các anh về”. Về sau tôi nghe các anh em kể lại: khi chúng tôi vào Thanh Hoá, và nói rằng tôi được cử làm giám đốc nông trường ở Thanh Hoá, (tôi còn là tù nhân thì làm sao làm giám đốc được!). Tin nầy làm cho anh em phẫn nộ và có ác cảm với tôi. Đây là lần thứ hai tôi bị tai tiếng. Lần trước tai tiếng đã từng xảy ra khi miền Nam bị mất, ở đâu người ta cũng đồn tôi là Thượng tá Việt Cộng. Xin Chúa chứng giám và biện minh cho con. A-Men!

Tôi vào Thanh Lâm (Thanh Hoá) gần hai năm. Đến giữa năm 1981, tôi được trở về trại Hà Tây để bị giam chung với các tướng lãnh. Ai cũng chê tôi gầy và đen quá.

Trong hai năm 1980-1981, trại Thanh Lâm bị bão lụt tàn phá nhiều lần, thiên tai gây tốn kếm rất nhiều hoa màu, cây cối bị thiệt hại nhiều lần làm cho nông trường bị giải thể, các trại viên được chuyển về nam ở trại Hàm Tân. Thời gian ở Thanh Lâm, gia đình tôi chỉ gởi quà tiếp tế chớ không ra thăm nuôi vì đường đi khó khăn trắc trở. Về đến Hà Tây thì có người nhà tôi ra thăm (sui gia và con gái). Ngoài quà cáp, tôi còn nhận được một quyển Kinh Thánh toàn bộ. Tôi phải cất giấu mới đem được vào trại. Ở trang đầu quyễn Kinh Thánh, Mục sư Hồ Hiếu Hạ có ghi tặng tôi câu Kinh Thánh ở Thi Thiên 119:105: ” Lời Chúa là ngọn đèn cho chân bác … là ánh sáng cho đường lối bác … … ”

Lúc bấy giờ Chúa đã làm cho tôi hai việc: (1) Chúa trang bị cho tôi hành trang tâm linh để cho tôi để cho tôi đọc hàng ngày dọn mình đến với Chúa. (2) Chúa an bài sắp xếp cho tôi ở chung với một số con cái Chúa.

Thật lạ lùng khi tôi nghĩ ra điều nầy. Tôi được giam ở buồng 4 có cửa thông qua buồng 3, nơi đây có ba Cơ Đốc Nhân là các tướng Lê Trung Trực, Đoàn Văn Quảng, và Nguyễn Chấn Á.

Chịu Báp Têm
Cuối tháng 3/1983, toàn trại Hà Tây được chuyển về trại Nam Hà. Các tướng lãnh được tập trung ở một dãy buồng lớn. Tôi rất vui mừng là trại nầy có giam Mục sư Tuyên uý Tin Lành và một Mục sư dân sự (Mục sư Điểu Huynh).

Ngày Chủ Nhựt 20 tháng 3 năm 1983 là ngày đáng ghi nhớ trong đời tôi. Sáng hôm ấy, sau khi tập hợp điểm danh trước buồng, đáng lẽ người cán bộ phụ trách khoá cửa vòng ngoài cửa buồng như thường lệ, thì anh ta lại quên khoá cửa. Chế độ giam giử cấp tướng là biệt giam. Chúng tôi không được ra ngoài liên hệ với buồng khác. Sau khi thấy được việc quên không khoá cửa, các anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi bàn với nhau nên lén lút thoát ra ngoài tìm chổ nhóm họp của các Mục sư. Sau khi đồng ý, chúng tôi hé cửa thoát ra ngoài hỏi thăm chổ nhóm của các Mục sư rồi đến ngay nơi ấy.

Chúng tôi vào buồng 11 leo lên trên (chổ ngủ phía dưới là bệ xi măng, còn phía trên là sạp ván). Đang nhóm họp tại đây có các Mục sư Dương Kỳ, Nguyễn Văn Nghi, Võ Xuân và một số tín hữu ở buồng khác đến. Chúng tôi tham gia thờ phượng Chúa và nghe Mục sư Dương Kỳ giảng. Xong bài giảng tôi ngỏ ý xin Mục sư Dương Kỳ làm phép Báp têm cho tôi vì nếu bỏ lỡ cơ hội nầy, khó có thể có dịp khác. Được Chúa cảm động Mục sư Dương Kỳ chấp thuận ngay. Thế là tôi được làm phép Báp têm bằng nước trong bi-đông tưới lên đầu. Tôi cảm động đến rơi lệ vì tình thương của Chúa đã cứu chuộc tôi, Chúa đã rữa sạch tội lỗi cho tôi. Kẻ từ hôm ấy, tôi được địa vị làm con cái Ngài và được gọi Ngài là Cha Thiên Thượng. Rõ ràng Ngài đã dọn đường cho tôi đến với Chúa theo cách Ngài muốn. Vì tôi là cựu Tổng trưởng Quốc phòng nên tôi nghỉ Chúa muốn chính Mục sư Dương Kỳ, Đại tá Tuyên Uý Trưởng ngành tuyên uý quân đội, làm lể Báp têm cho tôi. Nghi thức nầy được thực hiện ngay trong chốn lao tù, nơi tôi bị giam giữ.

Sau khi tin Chúa

Những thay đổi bước đầu
Sau khi tin Chúa, tôi cảm thấy vui mừng trong nội tâm. Vui mừng vì tất cả tội lỗi của mình trong quá khứ đã được Chúa tha thứ tẩy sạch. Đó là một gánh nặng mà tôi phải mang cho đến chết nếu không được Chúa cứu. Lời Chúa trong Kinh Thánh còn hứa chắc chắn rằng Ngài dành cho tôi một chổ ở trên Thiên Đàng khi linh hồn tôi rời bỏ trần thế nầy. Trước đây khi còn thờ hình tượng, không có đấng nào dám hứa với tôi như thế. Tôi quyết tâm ăn năn tội lỗi, sống một cuộc sống mới, thanh sạch gương mẫu. Tôi tuyệt nhiên không hút thuốc lá, uống rượu, cờ bạc là những điều dể vấp phạm trong hoàn cảnh buồn khổ ở trại giam. Được lời Chúa dạy dỗ, nhắc nhở hằng ngày, tôi sống vui vẻ và hạnh phúc hơn, được tình thương yêu lớn lao của Chúa bao bọc, tôi nhìn bạn bè xung quanh tôi với sự yêu thương chân thật. Tôi luôn luôn tìm cách giúp đở bạn bè trong các công việc lặt vặt như vá quần áo, sữa chữa đồ dùng (tôi được anh em khen là khéo tay). Tôi tích cực chia sẻ công việc khó khăn, nặng nhọc ở buồng như vét giếng, sửa nhà v.v. Đối với bạn bè nóng tính, tôi luôn luôn nhường nhịn và sẵn sàng tha thứ mỗi khi bị xúc phạm. Tôi sẵn sàng chia sẻ những gì tôi có cho bạn bè thiếu thốn từ thức ăn, thuốc uống cho đến các nhu cầu khác.

Chúa sống trong tôi
Những sự thay đổi trong người tôi, không phải do tôi giỏi, đức độ, siêng năng của tôi, bèn là Chúa sống trong tôi. Chúa đã giệt cái bản ngã thấp hèn của tôi rồi. Tôi xin mượn lời Vua Đa-vít chép trong Thi Thiên 51: 9-10 để diễn tả tâm tình của tôi: “Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi, và xoá hết thảy các sự gian ác tôi, Đức Chúa Trời tôi ơi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch và làm mới lại trong tôi mắt thần linh ngay thẳng”.

Tôi nghĩ lại quá khứ, không còn tin nơi tướng số, vận may. Lớn lên trong đức tin và sâu nhiệm lời Chú, tôi thấy rõ ràng tình thương của Chúa đến với con người bằng cửa hoạn nạn. Thật vậy, không có hoạn nạn chắc tôi chưa tìm gặp Chúa và được Chúa cứu. So sánh cái “được” và cái “mất ” từ năm 1975 đến ngày tôi tin Chúa: tôi mất tất cả tài sản, địa vị, danh vọng, hạnh phúc, tự do, v.v. Nhưng đổi lại tôi có Chúa, có Đấng Quyền Năng, Hằng Hữu che chở dẫn dắt, ban cho. Chẳng những ban cho trong đời nầy mà cho cả đời sau nữa. Cái được của tôi thật vô cùng lớn lao. Con xin cảm tạ ơn Chúa!

Ơn phước Chúa đầy dẫy

Ơn nhóm lại thờ phượng
Mục sư Dương Kỳ cắt cử Mục sư Võ Ngọc Thiên Lộc phụ trách chăn giử nhóm tín hữu buồng 3 của chúng tôi. Tôi rất quý mến Mục sư Lộc, người còn trẻ chưa lập gia đình, tánh tình cởi mở, rộng rải, hào phóng. Mục sư Lộc rất được ơn trước mặt Chúa. Hằng tuần đều cố gắng trèo rào vô buồng nhóm họp thờ phượng rao giảng Lời Chúa cho chúng tôi.

Một điều lạ lùng ngoài sức tưởng của tôi là Chúa đã gìn giử, che chở cho chúng tôi được bình an trong suốt 229 tuần lể kể từ ngày tôi tiếp nhận Chúa đến ngày tôi được tha về với gia đình (2-9-1987). Bình thường, mọi sự xuất nhập ở buồng 3 chỉ trong khoảng khắc là được hệ thống báo cáo viên đặt ở các buồng chung quanh chúng tôi trình lên cán bộ ngay. Điễn hình là đã có 4 anh em tướng lãnh vừa ra khỏi buồng 3 để liên hệ với bạn bè thì bị cán bộ trực trại xuống tập họp điểm danh làm kiểm điểm ngay. Đó là các tướng Trần Bá Di, Hồ Trung Hậu, Lam Sơn, Trần văn Cẫm. Thế nhưng trong suốt 229 tuần lễ, Mục sư ra vào buồng sinh hoạt tôn giáo với anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi thì được Chúa che chở bình an vô sự.

Chúa tiếp trợ lương thực
Giữa năm 1984, hai vị cựu tuyên uý là Mục sư Nguyễn Văn Nghi và Mục sư Võ Xuân được Chúa cảm động lén trèo rào vào thăm chúng tôi. Bốn anh em chúng tôi, các tướng lãnh đã tin Chúa rất vui mừng vì chúng tôi rất khao khát muốn được nghe lời Chúa qua các vị Mục sư.

Chúng tôi cố giữ mời hai Mục sư ở lại dùng cơm trưa với chúng tôi. Khi được hai vị đồng ý, anh Trực bàn với tôi để anh và anh Quảng cùng cụ Á tiếp Mục sư còn tôi lo nấu cơm. Tôi hơi bối rối vì thiếu chuẩn bị, món mặn thì có cá khô và lạp xưởng tạm được, nhưng thiếu món canh vì thiếu rau tươi. Tôi cuối đầu cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ cho chúng tôi. Cầu nguyện xong tôi đi xuống bếp thì thấy tướng Lý Tòng Bá đang ôm trên tay một bó bạc hà vừa mới nhổ ở luống rau của anh. Tôi mừng quá gọi anh Bá lại và ngỏ ý xin. Anh Bá sẳn sàng cho tôi hết bó rau. Anh nói tự nhiên sáng nay anh có ý nhổ bỏ bạc hà để dọn đất trồng rau khác và anh “không có nhu cầu” dùng rau bạc hà. Trong bữa cơm trưa, tôi nói cho hai vị Mục sư biết món canh chua bạc hà là do Chúa tiếp trợ. Chúng tôi cúi đầu cầu nguyện cảm tạ Chúa.

Được che chở nhờ đức tin

Giữa năm 1985, nhà tôi ra trại Nam Hà thăm nuôi. Tôi được tin nầy từ chiều hôm trước và chuẩn bị sáng hôm sau ra gặp vợ. Tối hôm ấy, một số anh em ngỏ ý xin tôi cho gửi thư về nhà. Đây là loại thư mang tay viết ngắn gọn để xin thuốc men, lương thực. Việc làm nầy đầy rủi ro bất trắc. Nếu ra cổng trại bị khám xét có thư trong người thì sẻ bị đuổi trở vô, không cho ra gặp người thân. Thật ra nếu tôi từ chối thì anh em cũng thông cảm thôi, nhưng tôi cậy ơn Chúa che chở, bảo anh em cứ viết cho thật ngắn gọn, sáng mai sẽ tùy cơ ứng biến. Tôi cầu nguyện xin Chúa giúp đở, che chở cho tôi mang thư ra được bình an. Tôi cảm thấy lòng nhẹ nhàng, bình an, tin quyết nơi Chúa.

Sáng hôm sao tôi nhận 12 lá thư xếp nhỏ gọn đễ dể mang ra trại. Thay vì cất giấu trong người, tôi nghỉ ra một cách là cầm gọn trong tay trái, nếu cán bộ bắt giử thì có cớ nói mang ra công khai để xin phép cán bộ chớ không có ý gian. Với ý nghĩ đó, tôi mạnh dạn bước ra cổng trại theo các anh em đi thăm nuôi. Hôm đó trời mưa lấm tấm, tôi mang theo áo mưa khoác ở tay trái. Khi đến trước mặt cán bộ trực trại, anh ta hỏi: “Anh có mang theo thư từ gì ra ngoài không?” Tôi không dám nói dối, vì nói dối là vấp phạm. Tôi bình tĩnh trả lời, xin cán bộ cứ khám xét người tôi, vừa nói tôi vừa giơ hai tay lên cao đưa người cho anh ta khám. Anh ta nhìn vào mắt tôi để dò xét rồi sờ mó qua người tôi từ trên xuống dưới, xong bảo tôi đi. Qua khỏi chổ đó, tôi hết sức vui mừng cảm tạ ơn Chúa. Lòng tôi nhẹ nhõm, lâng lâng hạnh phúc vì sắp gặp lại vợ, lại sung sướng làm xong nhiệm vụ đối với anh em trong buồng giam.

Sự qua đời của một con cái Chúa
Giữa mùa đông năm 1985, vào tháng Ba, trời trở rét đậm, cả ngày trời âm u ảm đạm. Cuộc sống nơi buồng 3 (giam cấp tướng) trong những ngày nầy bớt sinh động so với những ngày đầy nắng ấm. Ai cũng thích ngồi gần bếp lửa để sưởi ấm. Bốn anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi (Đoàn văn Quảng, Nguyễn Chấn Á, Lê Trung Trực, Nguyễn Hữu Có) đang quan tâm đến 2 vấn đề: ấy là chị Quảng đang trên đường ra thăm anh và việc tổ chức buổi nhóm thờ phượng cuối tuần.

Khác với tuần lễ trước, tuần nầy Mục sư Võ Ngọc Thiên Lộc cho biết ông gặp trở ngại không vào được buồng 3 vì cán bộ của trại dường như theo dõi ông. Tuy nhiên sáng thứ 7 khoảng 11 giờ, ông đến gần tường rào chổ gần giếng nước cho hay là ông sẽ vào buồng chúng tôi sau 12 giờ trưa và sẽ nhóm trong phòng ăn của buồng, khác với lần khác nhóm tại bếp nấu ăn của tôi hoặc của anh Trực. Ông thận trọng thay đổi chổ nhóm để được an toàn hơn.

Bắt đầu buổi nhóm, Mục sư Lộc cho biết tuần nầy ông đã soạn xong bài giảng, nhưng Chúa ngăn trở không cho vào buồng 3. Sau khi cầu nguyện với Chúa nhiều lần, Đức Thánh Linh cảm dộng ông giảng về đề tài khác: về cái chết đối với Cơ Đốc Nhân. Mặc dù thời gian đã qua lâu rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ nội dung bài giảng. Đây là những ý chính: Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên con người (Ma-la-chi 2: 10a), Ngài ban cho con người sự sống và cuộc sống (Phục truyền luật lệ ký 30:15) Ngài là Đấng quyền năng (Thi-Thiên 62:11) Ngài có quyền ban cho và con quyền cất đi sự sống của con người bất cứ lúc nào (Gióp 1:21). Con người trên thế gian không ai tránh khỏi sự chết, cái chết không phân biệt tuổi tác, không phân biệt sang hèn. Con người ai cũng sợ chết, nhưng không ai tránh khỏi nó. Hoặc sớm, hoặc muộn con người đều phải chết (Truyền đạo 9:3-5). Người ngoại đạo quan niệm chết là hết. Nhưng đối với Cơ Đốc Nhân chúng ta có sự trông cậy về đời sau, chết là lìa bỏ thế gian tạm bợ nầy để bước vào cuộc sống đời đời. Thân xác chúng ta được Chúa dựng nên bằng bụi đất, sẽ trở về với các bụi trong lòng đất. Nhưng linh hồn chúng ta được Chúa cứu chuộc sẽ về với Ngài nơi Thiên Quốc (Truyền đạo 12:7). Chúng ta không sợ cái chết, nhưng chúng ta luôn luôn có sự bình an vui mừng. Mục sư Lộc kết thúc bài giảng và mời anh Quảng cầu nguyện, anh cầu nguyện ngắn gọn như sau: “Chúa ơi, chúng con hết lòng cảm tạ Chúa vì cho chúng con nhóm lại thờ phượng Ngài và nghe lời Ngài dạy dỗ, nhắc nhở, yên ủi chúng con. Con luôn luôn vững vàng đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Con sẵn sàng về với Chúa bất cứ khi nào Chúa gọi con.”

Ngày thứ 2 đầu tuần lể, sinh hoạt ở buồng 3 như thường lệ. Trong khuôn viên giữa 4 bức tường rào quen thuộc vẫn là: tập thể thao, nấu ăn, tắm giặt, nghĩ ngơi, đọc sách, v.v.

Buổi chiều sau giờ nghĩ trưa, tôi đang ngồi chơi ngoài sân thì anh Quảng qua chỗ tôi ngồi, anh đùa giỡn với tôi và phấn khởi nói với tôi chị Quảng sắp ra thăm anh rồi. Sau đó anh về phòng. Chỉ vài phút sau, anh em trong phòng nhốn nháo la to lên: anh Quảng bị ngất xỉu mau gọi cấp cứu. Tôi chạy nhanh vào phòng đến chổ anh Quảng nằm, thì thấy anh đang nhắm mắt, tim không còn đập, hơi thở cũng không còn nữa, chúng tôi vừa xoa dầu, thoa bóp chân tay anh, vừa làm hô hấp nhân tạo. Chúng tôi vừa làm vừa theo dõi mong có được một dấu hiệu hồi sinh. Nhưng dần dần chúng tôi tuyệt vọng vì anh vẫn nằm bất động. Kế đó, buồng 3 tràn ngập đầy người: Bác sĩ, ý tá, cán bộ của trại, bạn bè ở các buồng khác. Nhưng tất cả đều thất bại. Anh Quảng đã vĩnh viễn ra đi. Chiều thứ 3 tức ngày hôm sau, lúc 4 giờ chiều anh Quảng được nhập quan trước sự chứng kiến của vài người, trong số đó có Mục sư Tín, Mục sư Lộc, anh Lê Trung Trực và tôi. Sáu tấm ván gổ thường được đóng sơ sài là linh cữu của anh Quảng, được đưa ra ngoài trại bằng cửa hậu để tránh sự tò mò của các tù nhân. Chúng tôi chỉ được phép đưa anh Quảng ra khỏi cổng trại, sau đó một toán tù thường phạm khiêng linh cửu đi theo đường mòn vòng ra phía sau núi và được chôn một cách lặng lẽ trong buổi hoàng hôn u buồn. Trời đã sẫm tối, sương mù bắt đầu rơi xuống. Chúng tôi lủi thủi trở về buồng giam, lòng nặng trĩu.

Hai hôm sau, tức ngày thứ 5, chị Quảng và người con út đến trại. Anh Vũ Văn Giai và tôi được phép đến nhà thăm nuôi gặp chị Quảng. Chúng tôi thuật lại sự ra đi của anh Quảng, yên ủi chị trong nước mắt và trao cho chị di sãn hiếm hoi của anh Quảng trước khi chị ra về.

Kỹ niệm đau buồn trên đây, tôi hằng nhớ mãi. Những việc lạ lùng mà Đức Chúa Trời đã làm khiến cho mắt tôi thấy được sự hiện diện của Ngài trong mỗi giây phút cuộc đời tôi. Thật Ngài là Đấng Toàn Tri, việc gì chưa xãy ra thì Ngài đã biết trước.

Với tình yêu thương lớn lao, Ngài đã tiên liệu và chuẫn bị cho sự ra đi của anh Quảng được nhẹ nhàng, bình an. Qua bài giảng của Mục sư Lộc, lời của Ngài đã nhắc nhở, yên ủi anh Quảng trước khi về với Ngài.

Ngài đã cảm động Mục sư Lộc mời anh Quảng cầu nguyện, rõ ràng đó là lời kêu gọi anh Quảng về với Ngài và anh Quảng đã tuyệt đối vâng phục, sẵn sàng ra đi không do dự, không sợ hãi. Ngài cũng giục lòng đưa đường chị Quảng và người con trai út ra đến trại đúng lúc để viếng phần mộ anh Quảng.

Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng không việc gì mà Ngài không làm được. Ngài có quyền trên sự sống và sự chết của con người.

Qua sự việc anh Quãng mà tôi đã chứng kiến, tôi càng vững tiến niềm tin nơi Chúa, hết lòng tôn thờ và vâng phục theo Ngài. A-Men

Thưa các bạn đọc thân mến,

Sau khi đọc xong bài làm chứng nầy, nếu lòng các bạn thấy cãm động muốn tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm cứu Chúa của mình, tôi khẩn thiết nài xin các bạn hãy quyết định ngay để tội lỗi các bạn được tha, linh hồn các bạn được cứu rỗi, đời sống các bạn được Chúa biến đổi.

Xin mời các bạn đến bất cứ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nào gần nơi bạn cư trú để được hướng dẫn tiếp nhận Chúa.

Nguyễn Hữu Có

(Sưu tầm từ internet)

Chiến cuộc tại Urkaine

  • Chiến tranh là điều khủng khiếp và thế giới lại trở nên nóng bỏng với chiến cuộc tại Ukraine.   Có những cuộc chiến là “chính nghĩa” hơn những cuộc chiến khác.
  • Tuy nhiên chiến tranh luôn là kết quả của tội lỗi (Rô-ma 3:10-18).
  • Tương tự, Truyền Đạo 3:8 nói rằng, “Có kỳ yêu, có kỳ ghét; Có kỳ chiến tranh, có kỳ hòa bình.” Trong một thế giới đầy rẫy tội lỗi, sự hận thù, và điều ác (Rô-ma 3:10-18), chiến tranh là không thể tránh khỏi.
  • Cơ Đốc Nhân không nên mong chiến tranh xảy ra, nhưng Cơ Đốc Nhân cũng không nên chống lại chính quyền mà Đức Chúa Trời đã đặt để trên họ (Rô-ma 13:1-4; 1 Phi-e-rơ 2:17).
  • Điều quan trọng nhất chúng ta cần làm khi chiến tranh diễn ra là cầu nguyện cho sự thông sáng thánh khiết của những nhà lãnh đạo, sự an toàn cho quân đội, hai bên nhanh chóng đưa ra được nghị quyết giải tỏa xung đột, và cầu nguyện cho tổn hại tối thiểu cho thường dân cả hai bên (Phi-líp 4:6-7).
Bài trích đăng dưới đây đươc đăng với tính cách tham khảo thời sự, không hẳn nói lên quan điểm của HT Tin Lành Lời Chúa.

Nga xâm lược Ukraine: James Landale nêu 5 kịch bản kết thúc chiến tranh có thể xảy ra

  • James Landale
  • Phóng viên Ngoại giao
4 tháng 3 2022

Quân đội Ukraine vào tháng 02/2022

Nguồn hình ảnh, Getty Imag Chụp lại hình ảnh,Quân đội Ukraine vào tháng 02/2022

Hiện nay thật khó để dự đoán cuộc chiến tại Ukraine cuối cùng sẽ diễn tiến như thế nào. Tin tức từ chiến trường, nền ngoại giao bị tắt tiếng, sự thống khổ của những người dân bị mất nhà cửa, tất cả có thể đã quá choáng ngợp.

Vì thế chúng ta hãy chậm lại trong chốc lát và nhìn nhận cuộc xung đột tại Ukraine có thể diễn tiến tiếp theo như thế nào. Và một số kịch bản kết thúc cuộc chiến nào đang được các nhà hoạch định chính trị và quân sự xem xét? Chỉ một số ít người có thể tự tin dự báo tương lai nhưng cũng có vài kịch bản có khả năng xảy ra. Đa số là không mấy sáng sủa.

1-Cuộc chiến ngắn ngày

Theo kịch bản này, thì Nga sẽ tiếp tục leo thang quân sự. Xuất hiện thêm các cuộc pháo kích bằng rocket và tên lửa bừa bãi. Không quân Nga – vốn có vai trò không nổi trội lắm cho đến nay – sẽ tiến hành những cuộc pháo kích có sức hủy diệt. Những cuộc tấn công mạng quy mô lớn càn quét qua Ukraine, nhắm vào các cơ sở hạ tầng quốc gia quan trọng. Hệ thống cung cấp năng lượng và mạng lưới viễn thông bị cắt đứt. Hàng ngàn dân thường bị thiệt mạng. Mặc dù kháng cự kiên cường nhưng Kyiv bị thất thủ trong thời gian tính chỉ theo ngày. Một chính quyền bù nhìn thân Nga được lập lên tại Ukraine. Tổng thống Zelensky bị ám sát hoặc bỏ trốn đến miền tây Ukraine hoặc ra nước ngoài, lập nên chính phủ lưu vong. Tổng thống Putin tuyên bố chiến thắng và rút đi một số lực lượng, chỉ duy trì đủ lực lượng để kiểm soát. Hàng ngàn người tị nạn tiếp tục rời bỏ đất nước. Ukraine cùng Belarus trở thành những nhà nước chư hầu của Moscow.

Kết cục này không phải là không thể xảy ra nhưng còn phụ thuộc vào một số nhân tố: Lực lượng Nga mạnh lên, Nga huy động thêm lực lượng và tinh thần chiến đấu ngoan cường của phía Ukraine bị suy giảm. Tổng thống Putin có thể đạt được mục tiêu thay đổi chế độ của Kyiv và đặt dấu chấm hết cho sự hòa nhập với phương Tây của Ukraine. Thế nhưng bất kỳ chính phủ thân Nga nào cũng sẽ không chính danh và dễ có nguy cơ bị lật đổ. Và kết cục như thế này sẽ là không bền vững và khả năng cao xảy ra một cuộc xung đột.

2-Cuộc chiến dài hơi

Cuộc chiến tại Ukraine có thể kéo dài. Có thể lực lượng Nga sẽ bị sa lầy, gặp khó khăn vì khâu hậu cầu thiếu hiệu quả và tinh thần xuống dốc, cùng năng lực lãnh đạo kém. Có lẽ lực lượng Nga cần thêm thời gian để đảm bảo vị thế tại thủ đô Kyiv nơi có các chiến binh phòng vệ chiến đấu ở mọi nơi. Sự vây hãm kéo dài. Cuộc giao tranh cũng làm gợi nhớ đến chiến kéo dài và tàn bạo của Nga vào những năm 1990 nhằm đánh chiếm và phá hủy phần lớn Grozny, thủ phủ của Chechnya.

Binh sĩ Chechnya trong cuộc chiến chiếm Grozny của Nga

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Binh sĩ Chechnya trong cuộc chiến chiếm Grozny của Nga

Và thậm chí khi lực lượng Nga đã có thể hiện diện tại một số thành phố của Ukraine thì có lẽ họ phải chật vật để duy trì thế kiểm soát. Có lẽ Nga không thể cung cấp đủ binh sĩ cho một quốc gia rộng lớn như vậy. Lực lượng phòng vệ Ukraine chuyển sang nổi dậy hiệu quả, tinh thần dâng cao và được dân chúng hậu thuẫn. Phương Tây tiếp tục cung cấp vũ khí và đạn dược. Và sau đó, có lẽ sau nhiều năm, có lẽ là một thế hệ lãnh đạo mới ở Moscow, lực lượng Nga cuối cùng rời khỏi Ukraine, trong thế thua cuộc và đổ máu như những người tiền nhiệm đã rời khỏi Afghanistan vào năm 1989 sau một thập kỷ chiến đấu chống lực lượng nổi dậy theo đạo Hồi.

3Chiến tranh lan ra châu Âu

Cuộc chiến này có thể lan ra khỏi biên giới của Ukraine hay không? Tổng thống Putin có thể tìm cách giành thêm một số phần khác như gửi quân đến các quốc gia cộng hòa từng thuộc Liên Xô cũ như Moldova và Gruzia, không thuộc Nato. Hoặc cũng có tính toán sai lầm và leo thang. Ông Putin có thể tuyên bố cung cấp vũ khí đến cho lực lượng Ukraine, một hành động đàn áp có thể gây nên sự đáp trả. Putin cũng có thể đe dọa gửi quân đến các quốc gia vùng Baltic – là thành viên của Nato như Lithuania để lập nên một hành lang trên đất liền với thành phố biển Kaliningrad tách biệt của Nga.

Quảng trường bên ngoài tòa thị chính của thành phố Kharkiv ngày 01/03 bị tàn phá sau các trận pháo kích của Nga

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Quảng trường bên ngoài tòa thị chính của thành phố Kharkiv ngày 01/03 bị tàn phá sau các trận pháo kích của Nga

Kịch bản này sẽ là một cuộc chiến đầy rủi ro và vô cùng nguy hiểm đối với Nato. Theo Điều số 5 trong Hiến chương của Nato thì một cuộc tấn công nhằm vào một quốc gia thành viên của liên minh quân sự này là cuộc tấn công đối với toàn khối. Thế nhưng Putin có thể chấp nhận rủi ro nếu ông cảm thấy đây là cách duy nhất để cứu vãn vị thế lãnh đạo của mình. Nếu như vậy thì ông ta có thể khiến tình hình leo thang hơn khi phải đối mặt với khả năng bại trận tại Ukraine.

Chúng ta hiện biết rằng nhà lãnh đạo Nga đã sẵn lòng phá vỡ những nguyên tắc quốc tế bấy lâu nay. Logic tương tự cũng có thể được áp dụng đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tuần này, ông Putin đã ra lệnh đặt lực lượng răn đe hạt nhân vào mức cảnh báo cao. Hầu hết các nhà phân tích cho rằng điều này có nghĩa việc Nga sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân là có thể hoặc một nguy cơ tiềm tàng. Nhưng đó là một cảnh báo rằng học thuyết của Nga cho phép việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến lược trên chiến trường.

4-Giải pháp hạt nhân

Mặc cho tất cả, có thể đạt một giải pháp ngoại giao khả dĩ hay không?

“Súng đã nổ nhưng con đường đối thoại vẫn còn rộng mở,” Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres nói. Chắc chắn đối thoại sẽ tiếp diễn. Tổng thống Pháp Macron đã có cuộc điện đàm với ông Putin. Các nhà ngoại giao cho rằng những đề nghị không chính thức đã được chuyển đến Moscow. Và thật ngạc nhiên khi giới chức Nga và Ukraine đã có các cuộc đàm phán ở biên giới Ukraine với Belarus. Họ có thể đã không đạt tiến triển nào. Nhưng thông qua việc đồng thuận đàm phán, Putin dường như đã chấp nhận một khả năng ngừng bắn thông qua thương lượng.

Và câu hỏi chính là liệu phương Tây có thể đưa ra điều mà các nhà ngoại giao gọi là “off-ramp” (ngã rẽ) hay không. Các nhà ngoại giao nói rằng điều quan trọng là Tổng thống Putin biết là cần phải làm gì để dỡ bỏ các lệnh trừng phạt của phương Tây nhằm có thể đạt được một thỏa thuận giữ được thể diện ở mức tối thiểu.

Hãy xem xét kịch bản này. Chiến tranh cũng không tốt đẹp gì cho Nga. Các lệnh trừng phạt cũng khiến Moscow bất ổn. Phe đối lập thì thêm lợi thế khi số lượng thương vong ngày càng tăng. Putin tự hỏi liệu có đang làm điều vượt quá sức của mình hay không. Ông ta đánh giá cuộc chiến kéo dài có thể gây rủi ro cho vị thế cầm quyền hơn là kết thúc trong tủi nhục.

Việc Trung Quốc can thiệp, gây nên áp lực hòa giải cho Moscow, và Trung Quốc có thể cảnh báo sẽ không mua dầu và khí đốt của Nga nếu nước này không giảm leo thang căng thẳng.

Vì vậy Putin bắt đầu tìm một lối thoát mới. Trong khi đó chính quyền Ukraine xem xét việc quốc gia bị tàn phá và kết luận rằng một sự hòa giải chính trị có thể tốt hơn là tiếp tục tổn thất nhân mạng. Vì thế các nhà ngoại giao tham gia và đạt được một thỏa thuận. Ukraine thì chấp nhận việc Nga tuyên bố chủ quyền tại Crimea và một số phần ở Donbass. Đối ngược lại Putin chấp nhận nền độc lập của Ukraine và quyền của quốc gia này có mối quan hệ sâu sắc hơn nữa với Châu Âu. Điều này có thể dường như không khả thi. Nhưng một kịch bản trỗi lên từ đống tàn tích của một cuộc xung đột đẫm máu không phải là không có khả năng xảy ra.

5-Putin bị lật đổ

Và còn về chính Vladimir Putin thì sao? Khi tiến hành cuộc xâm lược thì ông đã tuyên bố: “Chúng tôi sẵn sàng cho bất kỳ kết cục nào.”

Thế nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với kết cục ông ấy mất quyền lực? Điều này có thể khó mà nghĩ ra được. Thế giới đã thay đổi trong những ngày gần đây và điều này đã được suy tính đến.

Giáo sư Sir Lawrence Freedman, từ Đại học Kings College, London viết rằng: “Hiện nay có khả năng sẽ có sự thay đổi chế độ tại Moscow cũng như ở Kyiv.”

Một người bị cảnh sát bắt giữ ở Moscow vào ngày 02/03 trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Moscow

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Một người bị cảnh sát bắt giữ ở Moscow vào ngày 02/03 trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Moscow

Tại sao ông ấy lại có thể nói điều này? Có lẽ Putin theo đuổi một cuộc chiến tàn khốc. Hàng ngàn binh sĩ Nga đã bỏ mạng. Nga thì thấm đòn từ các lệnh trừng phạt. Putin bị mất sự ủng hộ của công chúng. Có lẽ có nguy cơ về một cuộc cách mạng quần chúng. Ông ấy sử dụng lực lượng an ninh nội bộ để đàn áp phe đối lập. Điều này khiến các thành viên cấp cao trong giới chính trị, kinh tế và quân sự của Nga cảm thấy chua chát và nổi dậy. Phương Tây nói rõ là Putin phải bị lật đổ và được thay thế bằng một lãnh đạo ôn hòa hơn, sau đó thì Nga sẽ được dỡ bỏ các lệnh trừng phạt và các mối quan hệ ngoại giao được phục hồi. Xảy ra cuộc lật đổ đẫm máu ở Điện Kremlin và Putin thất bại. Một lần nữa ngay lúc này kịch bản này dường như khó xảy ra. Nhưng không phải là không thể xảy ra nếu mà những người hưởng lợi từ Putin không còn tin rằng ông ta có thể bảo vệ được lợi ích của họ.

Kết luận

Những kịch bản trên không mang tính loại trừ lẫn nhau – một số có thể kết hợp lại để tạo ra những kết cục khác nhau. Tuy nhiên khi cuộc xung đột diễn tiến thì thế giới đã thay đổi và sẽ không quay trở lại hiện trạng như trước.

Mối quan hệ giữa Nga với thế giới bên ngoài sẽ khác biệt. Thái độ của Châu Âu đối với an ninh sẽ có bước đổi thay. Và đối với những người theo chủ nghĩa tự do thì một trật tự thế giới dựa trên luật pháp có lẽ đã trở lại như ý nghĩa vốn có lúc ban đầu.

Nguồn từ bbc.com

Lời Sống Hằng Ngày

Lời Sống Hằng Ngày

Được Khích Lệ Trong Chúa

03/03/2022

C H B T N S B


Được Khích Lệ Trong Chúa

Đọc: I Sa-mu-ên 23:15-24
Download MP3

Bấy giờ Giô-na-than, con của Sau-lơ, lên đường đến với Đa-vít… giúp ông vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời. I Sa-mu-ên 23:16

Năm 1925, Langston Hughes, nhà văn có nhiều hoài bão phát hiện nhà thơ mà mình ngưỡng mộ (Vachel Lindsey) lưu trú tại khách sạn ông đang phụ việc. Hughes ngượng ngùng gửi một vài bài thơ của mình cho nhà thơ và sau đó đã được Lindsey hết lời khen ngợi trong một buổi đọc thơ trước công chúng. Nhờ có sự động viên của Lindsey, Hughes nhận được học bổng tại trường đại học, giúp anh tiến xa hơn trong sự nghiệp viết lách thành công của chính mình.

Một lời khích lệ nhỏ có thể mang lại tác động lớn, đặc biệt là lời khích lệ đến từ Chúa. Kinh Thánh kể lại một sự kiện khi Đa-vít chạy trốn vua Sau-lơ, người đang cố “săn đuổi mạng sống ông”. Con trai của Sau-lơ là Giô-na-than đã tìm đến Đa-vít và “giúp ông vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời. Giô-na-than nói: ‘Đừng sợ, vì tay của cha tôi là Sau-lơ sẽ chẳng đụng đến anh được đâu. Anh sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên…’” (I Sam. 23:15-17).

Giô-na-than nói đúng. Đa-vít sẽ là vua. Chìa khóa khiến cho lời khích lệ của Giô-na-than trở nên có hiệu quả nằm ở cụm từ “nơi Đức Chúa Trời” (BTT, c.16). Qua Chúa Jêsus, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta “sự an ủi đời đời cùng niềm hy vọng tốt đẹp” (II Tês. 2:16). Khi chúng ta hạ mình trước Chúa, Ngài nâng chúng ta lên – là điều không ai có thể làm được.

Xung quanh chúng ta là những người cần sự khích lệ từ Chúa. Nếu chúng ta tìm đến họ như Giô-na-than tìm đến Đa-vít và nhẹ nhàng chỉ cho họ thấy Đức Chúa Trời bằng lời nói và hành động tử tế, thì Ngài sẽ làm phần còn lại. Bất kể cuộc sống này sẽ ra sao, một tương lai tươi sáng trong cõi đời đời sẽ luôn chờ đợi những ai tin nơi Ngài.

Bạn từng nhận được lời khích lệ đặc biệt của ai trong hành trình đức tin của mình? Hôm nay, bạn sẽ làm gì để củng cố đức tin của một ai đó?
Lạy Chúa kính yêu, không có sự khích lệ nào bằng điều Ngài ban cho. Xin cho con cơ hội được giúp người khác tìm thấy sức mới trong Ngài. Amen

bởi James Banks

Chú Giải

Mối quan hệ giữa Đa-vít và Giô-na-than thực sự rất đặc biệt. Giô-na-than là con trai của vua Sau-lơ và là người kế vị ngai vàng mà Đa-vít được xức dầu để nhận lấy. Tuy nhiên, Giô-na-than hết lòng tin cậy nơi sự lựa chọn của Đức Chúa Trời và việc Đa-vít được xức dầu để làm vua, đến nỗi ông đã giúp đỡ và khích lệ bạn mình dù phải trả giá đắt. Theo một nghĩa nào đó, Giô-na-than đang làm điều Chúa Jêsus mô tả như là dấu chỉ một người bạn thật, khi Ngài phán: “Không có tình yêu thương nào lớn hơn tình yêu thương vì bạn hữu mà hi sinh mạng sống mình” (Giăng 15:13). Giô-na-than đã từ bỏ phần lớn những điều mà cuộc đời ông có thể có để làm bạn với Đa-vít.

Content retrieved from: https://vietnamese-odb.org/today/.